ThS. Lê Hữu Đạt
Phân hiệu tại TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Giao thông vận tải
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích mối quan hệ nhân – quả giữa các rào cản trong việc triển khai trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng bằng phương pháp mờ DEMATEL. Dữ liệu được thu thập từ các chuyên gia và nhà quản lý doanh nghiệp, sau đó chuyển đổi thành giá trị mờ để phản ánh mức độ tương tác giữa các rào cản. Qua đó cho thấy, các yếu tố, như: thiếu sự hỗ trợ của lãnh đạo, thiếu công cụ đánh giá lợi ích trách nhiệm xã hội và thiếu đào tạo chuyên môn là những nguyên nhân có tác động mạnh nhất, ảnh hưởng đến các rào cản khác trong hệ thống. Đồng thời, chỉ ra các rào cản có giá trị D+R cao nhất là những yếu tố có mức độ kết nối lớn, đóng vai trò then chốt trong mạng lưới tác động. Bài viết đề xuất một số khuyến nghị nhằm góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách và chiến lược nhằm thúc đẩy thực hiện trách nhiệm xã hội một cách hiệu quả và bền vững hơn trong ngành Xây dựng.
Từ khóa: Trách nhiệm xã hội; doanh nghiệp; rào cản; mờ DEMATEL; ngành Xây dựng.
1. Đặt vấn đề
Đối với ngành Xây dựng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đang phát triển nổi bật như một nội dung cốt lõi, phản ánh những đặc điểm riêng của ngành. Về bản chất, ngành Xây dựng sử dụng nhiều nguồn lực trong suốt vòng đời của các dự án. Ngoài ra, ngành cũng có những đóng góp kinh tế đáng kể với phạm vi và quy mô lớn và là ngành cung cấp lực lượng lao động lớn hiện nay. Tuy nhiên, việc sử dụng quá mức tài nguyên và năng lượng trong các hoạt động xây dựng dẫn đến suy thoái môi trường vật chất và hủy hoại môi trường sinh thái. Những tác động xấu đến môi trường này, bao gồm làm xáo trộn đa dạng sinh học, tạo ra khí nhà kính và khí thải carbon, sản xuất vật liệu phế thải, thải nước bẩn và lạm dụng đất. Các hoạt động xây dựng và các công trình được xây dựng ảnh hưởng đến các khía cạnh khác nhau của hạnh phúc xã hội, như: sức khỏe, kinh tế, xã hội, môi trường và các hoạt động văn hóa. Theo đó, bài viết đã chỉ ra, từ việc có trách nhiệm với xã hội, các doanh nghiệp xây dựng có thể tăng lợi thế cạnh tranh bền vững và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức.
Thực tế, công tác triển khai trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp thường phức tạp hơn trong ngành Xây dựng bởi tính chất chuyển tiếp và dựa trên nhiều loại dự án. Việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam đang vấp phải một hệ thống các rào cản đan xen và tác động lẫn nhau. Rất nhiều các nghiên cứu trước đây chỉ ra các rào cản trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực ở các nước đã và đang phát triển. Tuy nhiên, chỉ một số ít nghiên cứu tập trung vào nhận biết và xếp hạng các rào cản ảnh hưởng đến thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng1, 2. Đặc biệt, hầu hết các nước đang phát triển bị nhiều áp lực về các vấn đề về kinh tế và đời sống nghèo nàn, lạc hậu, cho nên rất khó để thực hiện trách nhiệm xã hội để bảo đảm ưu tiên phát triển bền vững cho quốc gia3. Nghiên cứu sử dụng xem xét đánh giá hệ thống các tài liệu liên quan trong và ngoài nước đã xác định được 19 rào cản chính, trong đó nổi lên một số nhóm nguyên nhân then chốt:
Nhóm rào cản về quản trị và lãnh đạo: đây là nhóm nguyên nhân có tác động mạnh nhất. “Thiếu sự hỗ trợ của lãnh đạo doanh nghiệp” là rào cản hàng đầu, cho thấy nếu không có cam kết từ cấp lãnh đạo, mọi nỗ lực trách nhiệm xã hội đều khó triển khai hiệu quả. Bên cạnh đó, việc “Thiếu công cụ đánh giá lợi ích của trách nhiệm xã hội” khiến doanh nghiệp khó lượng hóa được giá trị thực tế, dẫn đến đầu tư mang tính hình thức hoặc chần chừ.
Nhóm rào cản về nguồn lực và chi phí, các yếu tố như: “Tốn nhiều thời gian”, “Tốn kém chi phí” và “Khó tiếp cận nguồn vốn thực hiện” trực tiếp ảnh hưởng đến quyết định và khả năng triển khai các chương trình trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh ngành xây dựng có đặc thù vốn lớn và biên lợi nhuận thường bị siết chặt.
Nhóm rào cản về con người và nhận thức: “Thiếu sự hài lòng của người lao động”, “Thiếu đào tạo về trách nhiệm xã hội” và “Doanh nghiệp thiếu chuyên môn về trách nhiệm xã hội” là những rào cản có mức độ liên kết rất cao. Điều này phản ánh sự thiếu hụt về nhận thức và năng lực nội bộ, khiến trách nhiệm xã hội không được tích hợp vào hoạt động cốt lõi.
Nhóm rào cản từ môi trường bên ngoài: “Thiếu sự hỗ trợ từ Chính phủ”, “Sự phức tạp của lĩnh vực xây dựng” và “Các bên liên quan thiếu tính liên kết” làm giảm hiệu quả của các nỗ lực trách nhiệm xã hội. Hệ quả rõ rệt nhất từ các nhóm nguyên nhân trên là “Cạnh tranh thấp” và “Thiếu thông tin hoạt động trách nhiệm xã hội”, khiến doanh nghiệp mất dần lợi thế và khó lan tỏa giá trị tích cực.
2. Thực tiễn thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp xây dựng
Nhận thức được tầm quan trọng và ích lợi của việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nhiều doanh nghiệp xây dựng ngoài trách nhiệm đóng thuế cho Nhà nước đã đăng ký thực hiện dưới dạng các cam kết đối với xã hội trong việc bảo vệ môi trường, với cộng đồng địa phương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở và với người lao động. Tuy vậy, mức độ thực hiện giữa các doanh nghiệp có sự khác biệt đáng kể.
Một trong những doanh nghiệp tiên phong và thành công trong việc khởi xướng những hoạt động trách nhiệm xã hội mang ý nghĩa thiết thực có thể kể đến Công ty cổ phần Xây dựng Coteccons. Coteccons liên tục được vinh danh ở các bảng xếp hạng “doanh nghiệp phát triển bền vững tiêu biểu”. Năm 2025, Công ty được ghi nhận trong TOP 50 doanh nghiệp phát triển bền vững Việt Nam ở hạng mục “Trách nhiệm xã hội (S)”. Thành công có được là do Công ty đã xây dựng một hệ thống trách nhiệm xã hội một cách bài bản và có nhiều hoạt động vì cộng đồng, Công ty đã tổ chức các chương trình “Xây Tết” trong 3 năm gần đây, trao gần 48.000 gói quà Tết và hơn 25.000 lượt khám sức khỏe cho công nhân xây dựng trên toàn quốc. Ngoài ra, dự án sáng kiến “Nhà mình” (Our Home) đã sơn sửa, tu bổ 144 công trình công cộng và cơ sở cộng đồng (trường học, trung tâm văn hóa, nhà ở công cộng…), qua đó, nâng cấp điều kiện sống, sinh hoạt cho nhiều người dân địa phương. Về phía môi trường, Coteccons từng đảm nhiệm tổng thầu cho nhà máy của đối tác quốc tế để thực hiện dự án của LEGO tại Việt Nam với tiêu chí “trung hòa carbon” thể hiện cam kết cao với phát triển bền vững. Về phía người lao động, với số lượng lớn nhân sự và lao động công trường, Coteccons đặt con người vào trọng tâm phát triển bền vững, theo đuổi các mục tiêu “đa dạng, công bằng, hòa nhập” trong hoạt động quản trị4.
Tương tự, Công ty cổ phần Tập đoàn Xây dựng Hòa Bình cũng nỗ lực từng bước thực hiện trách nhiệm xã hội thông qua các hoạt động thiện nguyện, tham gia đóng góp cho tuyến đầu chống đại dịch Covid-19, trao học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo vượt khó học giỏi mỗi năm. Tuy nhiên, về mặt nội bộ, Tập đoàn Xây dựng Hòa Bình được ghi nhận đã chậm đóng bảo hiểm trong 22 tháng cho 938 người lao động, với tổng số tiền là 60,3 tỷ đồng5. Điều này ảnh hưởng xấu tới uy tín công ty và đặt dấu hỏi về trách nhiệm với người lao động – một khía cạnh cốt lõi của trách nhiệm xã hội.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam đang cố gắng ứng dụng công nghệ xanh vào xây dựng, sử dụng các vật liệu thân thiện, tối ưu năng lượng nhằm giảm tác động tới môi trường, hướng đến phát triển bền vững và cam kết thực hiện trách nhiệm xã hội dài hạn.
Tuy nhiên thực tế cho thấy, ở đa số các doanh nghiệp xây dựng hiện nay, việc thực hiện trách nhiệm xã hội chỉ mang tính hình thức, chủ yếu để làm đẹp hình ảnh. Nhiều doanh nghiệp chỉ tập trung vào hoạt động từ thiện mà bỏ qua trách nhiệm môi trường hoặc lao động. Các thông tin về môi trường, chất thải, tiếng ồn, tai nạn lao động thường không được công bố. Chất thải xây dựng lớn và khó tái chế. Các hoạt động bảo vệ an toàn, vệ sinh lao động còn yếu kém. Nguyên nhân của những hạn chế này bắt nguồn từ các rào cản nêu trên. Tính chất chuyển tiếp, phụ thuộc vào từng dự án của ngành xây dựng khiến trách nhiệm xã hội khó được chuẩn hóa. Hơn nữa, áp lực về chi phí và tiến độ thường được ưu tiên hàng đầu, khiến các mục tiêu môi trường và xã hội bị xem nhẹ.
Việc thu thập ý kiến chuyên gia gặp nhiều khó khăn do các doanh nghiệp còn ngại chia sẻ thông tin, chủ yếu mới có các tập đoàn lớn (như Vingroup, Hòa Bình Construction, Holcim Vietnam…) bước đầu quan tâm đến vấn đề này. Điều này cho thấy, trách nhiệm xã hội chưa thực sự trở thành một phần trong văn hóa và chiến lược cạnh tranh của đa số doanh nghiệp xây dựng.
Qua các dữ liệu thu thập được và phân tích bằng DEMATEL mờ6. Kết quả nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa các rào cản, như sau.
Bảng 1. Kết quả mối quan hệ giữa các rào cản
| Tên rào cản | D | R | D+R | D-R |
| Doanh nghiệp thiếu chuyên môn về trách nhiệm xã hội | 13.674 | 13.611 | 27.285 | 0.063 |
| Thiếu sự hài lòng của người lao động | 13.979 | 13.304 | 27.283 | 0.675 |
| Thiếu sự hỗ trợ của lãnh đạo doanh nghiệp | 13.938 | 2.504 | 26.442 | 1.434 |
| Thiếu đào tạo về trách nhiệm xã hội | 13.400 | 12.917 | 26.317 | 0.483 |
| Thái độ thiếu tích cực của doanh nghiệp | 13.091 | 13.277 | 26.368 | -0.186 |
| Thiếu các chuyên gia và chuyên môn về trách nhiệm xã hội | 13.493 | 13.297 | 26.790 | 0.196 |
| Sự phức tạp của lĩnh vực xây dựng | 12.923 | 12.777 | 25.700 | 0.146 |
| Bảo vệ môi trường chưa cao | 13.152 | 12.847 | 25.999 | 0.305 |
| Tốn nhiều thời gian | 13.904 | 12.385 | 26.289 | 1.519 |
| Sự chia sẻ thông tin về trách nhiệm xã hội thấp | 12.955 | 13.634 | 26.589 | -0.679 |
| Tốn kém chi phí | 12.743 | 13.064 | 25.807 | -0.321 |
| Thiếu công cụ đánh giá lợi ích của trách nhiệm xã hội | 14.220 | 13.353 | 27.573 | 0.867 |
| Khó tiếp cận nguồn vốn thực hiện | 13.246 | 13.060 | 26.306 | 0.186 |
| Lợi ích thấp | 13.136 | 13.605 | 26.741 | -0.469 |
| Thiếu sự hỗ trợ từ Chính phủ | 13.023 | 12.747 | 25.770 | 0.276 |
| Thiếu thông tin hoạt động trách nhiệm xã hội | 13.692 | 14.782 | 28.474 | -1.090 |
| Chưa lôi cuốn được các doanh nghiệp | 12.926 | 13.631 | 26.557 | -0.705 |
| Các bên liên quan thiếu tính liên kết thực hiện | 13.338 | 13.330 | 26.668 | 0.008 |
| Cạnh tranh thấp | 11.671 | 14.379 | 26.050 | -2.708 |

Kết quả phân tích theo phương pháp Fuzzy DEMATEL cho phép xác định mối quan hệ nhân – quả giữa các rào cản trong việc triển khai trách nhiệm xã hội trong lĩnh vực xây dựng. Dữ liệu cho thấy, các giá trị D (tổng mức độ ảnh hưởng) và R (tổng mức độ bị ảnh hưởng) dao động trong khoảng từ 11.671 đến 14.379, phản ánh mức độ tương tác tương đối chặt chẽ giữa các rào cản. Việc tính toán các chỉ số D+R và D–R giúp nhận diện được mức độ quan trọng cũng như bản chất nhân – quả của từng yếu tố trong hệ thống.
Nhìn chung, nhóm các rào cản có giá trị D–R dương được xác định là nhóm nguyên nhân (cause group), tức là những yếu tố có xu hướng gây ảnh hưởng đến các rào cản khác. Trong đó, “Thiếu sự hỗ trợ của lãnh đạo doanh nghiệp” (D–R = 1.434), “Tốn nhiều thời gian” (1.519), “Thiếu công cụ đánh giá lợi ích của trách nhiệm xã hội” (0.867) và “Thiếu sự hài lòng của người lao động” (0.675) là các yếu tố có mức ảnh hưởng mạnh nhất. Điều này thể hiện vai trò của lãnh đạo doanh nghiệp trong việc định hướng và thúc đẩy thực hiện trách nhiệm xã hội là yếu tố cốt lõi. Khi lãnh đạo thiếu cam kết hoặc chưa nhìn thấy lợi ích trực tiếp, toàn bộ quá trình triển khai trách nhiệm xã hội sẽ gặp trở ngại. Bên cạnh đó, việc thiếu các công cụ đánh giá hiệu quả khiến doanh nghiệp khó nhận diện giá trị thực tiễn của trách nhiệm xã hội dẫn đến sự chần chừ hoặc đầu tư mang tính hình thức. Ngoài ra, yếu tố con người cũng đóng vai trò quan trọng khi người lao động không cảm thấy hài lòng hoặc không được tham gia tích cực, các chương trình trách nhiệm xã hội khó đạt hiệu quả mong muốn.
Ngược lại, các yếu tố có giá trị D–R âm thuộc nhóm kết quả (effect group), phản ánh hệ quả phát sinh từ sự thiếu hụt trong nhận thức, năng lực và cơ chế hỗ trợ. “Cạnh tranh thấp” (D–R = –2.708) là yếu tố chịu tác động mạnh nhất, cho thấy việc không thực hiện trách nhiệm xã hội có thể khiến doanh nghiệp mất lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó, các yếu tố như “Thiếu thông tin hoạt động trách nhiệm xã hội” (–1.090), “Chưa lôi cuốn được các doanh nghiệp khác” (–0.705) hay “Sự chia sẻ thông tin thấp” (–0.679) đều phản ánh hệ quả dây chuyền từ nhóm nguyên nhân: khi doanh nghiệp thiếu đào tạo, công cụ và cam kết lãnh đạo, việc truyền thông và lan tỏa trách nhiệm xã hội trở nên hạn chế. Điều này tạo ra vòng luẩn quẩn, trong đó nhận thức và hành động về trách nhiệm xã hội đều ở mức thấp, cản trở tiến trình phát triển bền vững của toàn ngành.
Giá trị D+R của các yếu tố như “Thiếu thông tin hoạt động trách nhiệm xã hội” (28.474), “Doanh nghiệp thiếu chuyên môn về trách nhiệm xã hội” (27.285) và “Thiếu sự hài lòng của người lao động” (27.283) đạt mức cao nhất cho thấy, đây là các rào cản có mức độ liên kết mạnh nhất trong mạng lưới quan hệ. Các yếu tố này vừa chịu tác động, vừa có ảnh hưởng lan tỏa đáng kể đến các rào cản khác. Việc cải thiện năng lực chuyên môn, minh bạch thông tin và tăng sự tham gia của người lao động được xem là các đòn bẩy quan trọng nhằm phá vỡ vòng nhân – quả tiêu cực trong hệ thống trách nhiệm xã hội hiện nay.
3. Kết luận và một số khuyến nghị
Từ góc nhìn quản lý, kết quả phân tích Fuzzy DEMATEL gợi ý rằng các chính sách và chiến lược phát triển trách nhiệm xã hội trong doanh nghiệp cần tập trung vào nhóm nguyên nhân có tác động mạnh, thay vì chỉ xử lý các hệ quả bề nổi. Việc nâng cao vai trò lãnh đạo, phát triển công cụ đánh giá hiệu quả, cũng như thiết lập cơ chế đào tạo và chia sẻ thông tin nội bộ sẽ giúp tạo nền tảng cho việc cải thiện toàn diện hoạt động trách nhiệm xã hội. Ngoài ra, các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, các tổ chức nghề nghiệp và hiệp hội ngành Xây dựng cũng đóng vai trò quan trọng nhằm khuyến khích doanh nghiệp tham gia trách nhiệm xã hội như một yếu tố cốt lõi của chiến lược cạnh tranh bền vững. Trong đó, có thể tập trung vào một số vấn đề trọng tâm như sau:
Một là, tăng cường cam kết và vai trò dẫn dắt của lãnh đạo doanh nghiệp trong việc xây dựng chiến lược và văn hóa thực hiện trách nhiệm xã hội.
Hai là, xây dựng và phổ biến các bộ công cụ cụ thể để đánh giá lợi ích và hiệu quả của các hoạt động trách nhiệm xã hội, giúp doanh nghiệp nhận thấy giá trị thực tế.
Ba là, đẩy mạnh các chương trình đào tạo chuyên sâu nhằm nâng cao năng lực chuyên môn về trách nhiệm xã hội cho cả lãnh đạo và người lao động trong doanh nghiệp.
Bốn là, thiết lập cơ chế chia sẻ thông tin minh bạch và truyền thông nội bộ hiệu quả để nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia của người lao động vào các hoạt động trách nhiệm xã hội.
Năm là, Chính phủ và các hiệp hội ngành cần có chính sách hỗ trợ và khung pháp lý khuyến khích, công nhận các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, biến đây thành lợi thế cạnh tranh.
Chú thích:
1. Pham, H., T. Pham, and C. N. Dang (2022). Barriers to corporate social responsibility practices in construction and roles of education and government support. Engineering, Construction and Architectural Management, 29 (7), 2714–2735.
2. Nguyen, M. V (2024). Barriers to corporate social responsibility performance in construction organizations. Engineering, Construction and Architectural Management, 31, 1473–1496.
3. Serpell A., Kort J. and Vera S. (2013). Awareness, actions, drivers and barriers of sustainable construction in Chile. Technological and Economic Development of Economy, 19(2), 272–288.
4. Vinh danh top 50 doanh nghiệp phát triển bền vững tiêu biểu 2025. https://congthuong.vn/vinh-danh-top-50-doanh-nghiep-phat-trien-ben-vung-tieu-bieu-2025-410998.html
5. Xây dựng Hòa Bình (HBC) nợ 60 tỷ đồng bảo hiểm kinh doanh cốt lõi tiếp tục thua lỗ. https://doanhnhan.baophapluat.vn/xay-dung-hoa-binh-hbc-no-60-ty-dong-bao-hiem-kinh-doanh-cot-loi-tiep-tuc-thua-lo-85438.html
6. Chang, B., Chang, C.W., and Wu, C.H. (2011). Fuzzy DEMATEL method for developing supplier selection criteria. Expert Systems with Applications, 38(3), 1850-1858.
Tài liệu tham khảo:
1. Châu Thị Lệ Duyên và Huỳnh Trường Thọ (2015). Mối quan hệ giữa trách nhiệm xã hội, lãnh đạo và hiệu quả tài chính: trường hợp doanh nghiệp khu vực thành phố Cần Thơ. Tạp chí khoa học trường Đại học Cần Thơ – Phần D: Khoa học chính trị, Kinh tế và Pháp luật, số 38, tr. 75-82.
2. Nguyễn Thị Lành và Phạm Thị Ngọc Trâm (2016). Các nhân tố tác động đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học Đại học Đà Lạt, số 6(1), tr. 119 – 128.
3. Nguyễn Vĩnh Long và Lưu Thế Vinh (2019). Cơ hội và thách thức khi thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập. Tạp chí Khoa học và Công Nghệ, số 15(2), tr. 77 – 87.
4. Alotaibi A., Edum-Fotwe F. and Price A.D.F. (2019). Critical barriers to social responsibility implementation within mega-construction projects: the case of the Kingdom of Saudi Arabia. Sustainability, 11, 1755.
5. Duman, D. U., H. Giritli, and P. McDermott. (2016). Corporate social responsibility in construction industry. A comparative study between UK and Turkey. Built Environment Project and Asset Management, 6 (2), 218– 231.
6. Zhang Q., Oo, B.L. and Lim, B.T.H. (2019). Drivers, motivations, and barriers to the implementation of Corporate Social Responsibility practices by construction enterprises: A review. Journal of Cleaner Production.



