Giữ vững hệ sinh thái bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước những “căn bệnh” của kỷ nguyên số

Bài 2: Những căn bệnh trong kỷ nguyên số: thách thức đối với hệ sinh thái bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

ThS. Lê Thị Ngọc Lệ
Trường Chính trị thành phố Đà Nẵng

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong kỷ nguyên số, nghiện mạng xã hội là “độc dược”, là căn bệnh gốc cực nguy hiểm, bào mòn tư duy, lý tưởng và niềm tin, làm suy yếu trách nhiệm công dân. Cùng với bệnh thờ ơ, vô cảm, hội chứng khủng hoảng niềm tin số tạo thách thức nghiêm trọng cho hệ sinh thái bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Từ khóa: Căn bệnh trong kỷ nguyên số; hệ sinh thái; nghiện mạng xã hội; thờ ơ, vô cảm; hội chứng khủng hoảng niềm tin số.

1. Nghiện mạng xã hội – căn bệnh gốc cực kỳ nguy hiểm

Trong kỷ nguyên số, thách thức với hệ sinh thái bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ đến từ nguy cơ bên ngoài mà còn từ những “căn bệnh” nội sinh làm suy kiệt hệ miễn dịch tinh thần và tấn công nền tảng tư tưởng dân tộc.

Chúng ta cảnh giác với AI nhưng đừng quên mạng xã hội vẫn chính là “độc dược”. Đây là lý do nhiều quốc gia áp dụng các biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt, như: Trung Quốc giới hạn trẻ em dưới 14 tuổi sử dụng mạng Douyin 40 phút/ngày; Australia vừa ra quy định cấm người dưới 16 tuổi tạo hoặc dùng tài khoản trên nhiều nền tảng mạng xã hội; Na Uy và Đan Mạch mới đây cũng tham vấn công chúng về việc cấm mạng xã hội đối với trẻ em dưới 15 tuổi.

Thuật toán của mạng xã hội ưu tiên điều ta thích hơn điều ta cần, khiến tri thức trở thành “thực phẩm chức năng” – dễ hấp thụ nhưng không đủ nuôi dưỡng tư duy. Khác với Google hay Wikipedia buộc người dùng phải tìm kiếm và đặt câu hỏi, mạng xã hội triệt tiêu cả năng lực sơ đẳng ấy; triệt tiêu cả khả năng tư duy phản biện vốn là cốt lõi của giáo dục thế kỷ XXI. Người dùng quen với những video ngắn – như những “món ăn đã nấu sẵn”, chỉ tiếp nhận thông tin vụn vặt mà không kiểm chứng, khiến hiểu biết nông cạn và dễ bị lệch lạc.

Sự xuất hiện của AI khuếch đại căn bệnh thụ động này, mạng xã hội khiến con người quên cách tự học, còn AI đang khiến ta quên cách tự nghĩ. Ranh giới giữa phụ thuộc và khai phóng nằm ở chính năng lực này, người thụ động dùng AI để có đáp án tức thì, trong khi người chủ động biến nó thành trợ lý tri thức.

Khi tri thức được tiếp nhận trong thụ động, lý tưởng cũng dần bị bào mòn. Hậu quả này không chỉ giới hạn ở cá nhân mà còn lan rộng ra toàn xã hội. Ở nhiều gia đình, sự hiện diện vật lý gần nhau của cha mẹ và con cái lại bị chia cắt bởi những “thế giới số” riêng. Chính thói quen chìm đắm trong mạng xã hội và sự lơ là định hướng của cha mẹ đã tạo điều kiện cho trẻ dễ bị dẫn dắt bởi thông tin nông cạn. Các vụ việc đáng báo động như học sinh giật tóc cô giáo ở một trường học tại Hà Nội hay nhóm học sinh ẩu đả, dẫn đến chết người ở Thanh Hóa là hồi chuông cảnh tỉnh, phản ánh một thực trạng sự xuống cấp về đạo đức và lỗ hổng trong quản lý giáo dục, cần được tăng cường giáo dục đạo đức và kỹ năng sống.

Đặc biệt, cơn nghiện mạng xã hội chiếm đoạt thời gian dành cho việc đọc và suy ngẫm, khiến con người mất khả năng kết nối với tri thức nền. Người Việt dành gần 7 giờ mỗi ngày cho các hoạt động trực tuyến1, trong khi thói quen đọc sách đáng phải suy ngẫm: trung bình một người chỉ đọc khoảng 4 quyển mỗi năm, trong đó 2,8 quyển là sách giáo khoa2 – một tỷ lệ thấp hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực. Đây là khoảng trống tri thức nền tảng, minh chứng cho sự hời hợt dẫn đến sự thiếu hiểu biết kiến thức lịch sử của dân tộc mà điển hình như phóng sự về học sinh khẳng định “Quang Trung và Nguyễn Huệ là hai anh em”.

Mạng xã hội ngày càng biến đối thoại thành “chiến trường cảm xúc”, khiến phản biện bị thay bằng công kích. Những nội dung tưởng chừng vô hại trên các nền tảng như YouTube, Facebook, TikTok dễ châm ngòi tranh cãi, đe dọa trực tiếp sự ổn định tư tưởng và xã hội. Mức độ nghiêm trọng của “cơn dịch thông tin” được thể hiện rõ: năm 2024, lực lượng chức năng đã xử lý hơn 5.200 vụ việc liên quan đến tin giả và thông tin sai sự thật trên không gian mạng3. Khi khả năng phản biện suy giảm và đọc sâu – liều vắc-xin cho tư duy – bị thay thế bằng lướt mạng, nền tảng tư tưởng bắt đầu lung lay từ chính bên trong mỗi cá nhân.

2. Bệnh thờ ơ, vô cảm – “cái chết” lặng lẽ của trách nhiệm công dân

Thờ ơ, vô cảm bắt nguồn từ “căn bệnh gốc” – nghiện mạng xã hội. Căn bệnh thờ ơ, vô cảm vốn đã được “nuôi dưỡng” từ mặt trái của cơ chế thị trường, nay càng trầm trọng hơn khi con người đắm chìm trong thế giới ảo. Nghiện mạng xã hội khiến chúng ta bị bội thực thông tin, trôi nổi giữa vô vàn luồng dữ liệu. Sự tiếp xúc quá tải khiến cảm xúc dần chai sạn, biến lòng trắc ẩn thành phản xạ lướt qua thay vì sự đồng cảm sâu sắc.

Từ “thờ ơ, vô cảm” đến “ích kỷ”, căn bệnh kép âm thầm bào mòn trách nhiệm xã hội và lý tưởng công dân. Sự thờ ơ, vô cảm lan nhanh như dịch, trong khi mạng xã hội lại tiếp tay cho văn hóa khoe khoang, sĩ diện, đẩy mạnh ích kỷ và làm nguội lạnh giá trị nhân văn. Việc chìm sâu vào thế giới ảo khiến con người tự cô lập, dễ thu mình trong lợi ích cá nhân, để mặc các giá trị chung bị xói mòn.

Nhiều phụ huynh thờ ơ, giao con cho màn hình điện tử, chỉ ích kỷ nghĩ đến sự tiện lợi, bỏ quên trách nhiệm nuôi dạy… Nguy hiểm hơn, khi thờ ơ, vô cảm len vào hệ thống chính trị, biểu hiện qua thái độ bàng quan của công chức trước bức xúc của nhân dân, qua những thủ tục hành chính rườm rà, quan liêu. Sự thờ ơ trong công vụ không chỉ gây trì trệ mà còn nuôi dưỡng tâm lý “im lặng bảo thân” do thiếu cơ chế bảo vệ người tố giác. Thái độ bàng quan ấy chính là tấm màn che đậy sự buông lỏng kiểm soát quyền lực. Vì thế, khi các vụ án lớn phơi bày, người dân ngỡ ngàng, tại sao bao năm không ai biết (!). Phần nổi là vi phạm nhưng phần chìm chính là căn bệnh vô cảm đã làm mục ruỗng hệ thống. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng cảnh báo, thái độ “ai mặc kệ ai” là “mầm mống chia rẽ nội bộ”, tạo điều kiện để các phần tử xấu “chui vào hoạt động trong Đảng”4. Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30/6/2016 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ cũng chỉ rõ: “thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của Nhân dân” là biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống.

3. Hội chứng khủng hoảng niềm tin số – biến thể nguy hiểm của thời đại

Nếu “bệnh thờ ơ” làm con người nguội lạnh lý tưởng, thì “hội chứng khủng hoảng niềm tin” đánh thẳng vào gốc rễ – niềm tin vào sự thật, vào xã hội, vào hệ thống chính trị và nền tảng tư tưởng của Đảng.

Gốc rễ khủng hoảng niềm tin: phân cực cực đoan và “cái chết” của sự thật số. Thuật toán mạng xã hội “giam” người dùng trong không gian quen thuộc, nơi chỉ hiện điều ta muốn thấy. Điều này, cùng với việc nội dung thường được giật tít, gợi mâu thuẫn hoặc bóp méo thông tin, khiến khi sự thật bị lặp lại sai lệch, hiệu ứng “sự thật ảo giác” hình thành, mở đường cho luận điệu xuyên tạc tấn công “hệ miễn dịch nhận thức” của xã hội. Đặc biệt nguy hiểm là sự tấn công của công nghệ mới, AI tạo sinh và “virus deepfake” có khả năng giả mạo hình ảnh, giọng nói hoàn hảo, khiến thông tin sai lệch lan rộng với tốc độ chưa từng có. Nguy hiểm hơn nữa là hiện tượng “đầu độc dữ liệu” (data poisoning) – khi thông tin sai hoặc gây hiểu nhầm bị cài vào dữ liệu huấn luyện AI, làm tin giả có thể phát tán trên quy mô lớn và được tẩy trắng dễ dàng.

Di chứng khủng hoảng niềm tin hệ thống. Sự hoài nghi lan rộng đang trở thành mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch gieo rắc ngờ vực và chia rẽ xã hội. Nhiều vụ việc gần đây cho thấy sức tàn phá của tin giả không chỉ về kinh tế mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tinh thần, niềm tin cộng đồng, thậm chí gây hoang mang, hỗn loạn trong xã hội. Điển hình, vụ lật tàu du lịch Vịnh Xanh (Quảng Ninh) hay tin đồn vỡ đập thủy điện Bản Vẽ (Nghệ An) bị thổi phồng trên mạng xã hội vừa qua đã khiến dư luận hoang mang, du khách e ngại, người dân lo sợ, gây tổn hại vật chất lẫn hình ảnh của địa phương. Hay trong đợt mưa lũ tại miền Trung vừa qua, tin đồn thất thiệt về vỡ đập và các sự cố lũ lụt đã lan truyền chóng mặt, khiến người dân hoang mang, gây tâm lý lo sợ trong cộng đồng. Đây là minh chứng rõ ràng về sức tàn phá tinh thần và niềm tin vào tin giả, không thua kém mức tàn khốc của thiên tai.

Khi thật – giả lẫn lộn, công chúng dần mất phương hướng. Cùng lúc, sự vô trách nhiệm của một bộ phận công chức bị phơi bày trên môi trường số, từ các dự án kém chất lượng đến hành vi trục lợi trong thiên tai, dịch bệnh… làm trầm trọng thêm khủng hoảng niềm tin. Khi niềm tin vào hệ thống bị xói mòn, người dân lại thờ ơ trước cái sai, tạo môi trường cho tiêu cực lan rộng, đe dọa tính bền vững của niềm tin vào xã hội chủ nghĩa và vai trò lãnh đạo của Đảng.

Chú thích:
1. Người Việt dùng Internet gần 7 giờ mỗi ngày. https://tuoitre.vn/nguoi-viet-dung-internet-gan-7-gio-moi-ngay-20251014142602738.htm?utm_source=chatgpt.com, ngày 14/10/2025.
2. Người Việt đọc trung bình 4 quyển sách/năm nhưng 2,8 quyển đã là sách giáo khoa. https://giaoducthoidai.vn/nguoi-viet-doc-trung-binh-4-quyen-sachnam-nhung-28-quyen-da-la-sach-giao-khoa-post703257.html, ngày 03/10/2024.
3. Không để thông tin sai sự thật làm xói mòn và suy giảm niềm tin. https://nhandan.vn/khong-de-thong-tin-sai-su-that-lam-xoi-mon-va-suy-giam-niem-tin-post897854.html?utm_source=chatgpt.com, ngày 01/8/2025.
4. Hồ Chí Minh (2015). Sửa đổi lối làm việc. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 93.