Khoa học công nghệ là động lực phát triển kinh tế – xã hội của đất nước

(QLNN) – Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt từ khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, Đảng ta đã sớm có các định hướng và chỉ đạo đúng đắn về vị trí, vai trò của khoa học – công nghệ đối với sự phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời, luôn coi trọng và tạo điều kiện thuận lợi để khoa học – công nghệ phát triển.

Quan điểm coi khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa được khẳng định và quán triệt trong nhiều văn kiện của Đảng thời kỳ đổi mới. Tạp chí Quản lý nhà nước đã có cuộc phỏng vấn đầu xuân đối với Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Văn Tùng để hiểu thêm về nội dung này.

PV: Thưa Thứ trưởng, khoa học và công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, góp phần phát triển kinh tế – xã hội và tái cấu trúc nền kinh tế. Vậy, thứ trưởng có đánh giá thế nào về vai trò động lực của khoa học – công nghệ (KHCN) trong phát triển kinh tế hiện nay?

Thứ trưởng Trần Văn Tùng: Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt từ khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, Đảng ta đã sớm có các định hướng và chỉ đạo đúng đắn về vị trí, vai trò của khoa học và công nghệ (KHCN) đối với sự phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời, luôn coi trọng và tạo điều kiện thuận lợi để KHCN phát triển. Quan điểm coi KHCN là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa được khẳng định và quán triệt trong nhiều văn kiện của Đảng thời kỳ đổi mới.

Như các bạn đã biết, trước Đại hội VI, Đảng ta đã xác định cách mạng khoa học – kỹ thuật là then chốt trong ba cuộc cách mạng của thời kỳ khôi phục và kiến thiết đất nước sau thống nhất. Đại hội VI (1986) coi KHCN là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội VII (1991) khẳng định KHCN là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội Đảng VIII (1996) và Đại hội IX (2001) coi KHCN là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội X (2006) nhấn mạnh vai trò động lực của KHCN trong phát triển kinh tế tri thức. Đại hội XI (2011) đề ra đường lối đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và KHCN giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững.

Và trong thời gian qua, những kết quả đạt được của ngành KHCN nước ta đã có bước phát triển vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng, cải thiện an sinh xã hội và chất lượng cuộc sống, đưa nước ta từ một nước thiếu gạo ăn trở thành nước xuất khẩu gạo vào hàng đầu trên thế giới, đời sống nhân dân được cải thiện, hạ tầng cơ sở phát triển; đồng thời, đưa nước ta từ nước kém phát triển gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình. Với những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử như vậy, chắc chắn có sự đóng góp quan trọng của KHCN.

Cuộc cách mạng KHCN hiện đại đang có bước tiến như vũ bão diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã và đang tạo ra cơ hội hết sức thuận lợi để các nước, nhất là các nước đang phát triển sẽ nhanh chóng rút ngắn khoảng cách so với các nước phát triển. Với kinh nghiệm của các nước đang phát triển trên thế giới và trong khu vực như: Hàn Quốc, Singapo, Nhật Bản và các nước phát triển như Mỹ, Đức,… chỉ ra cho chúng ta thấy, biện pháp để đưa nền kinh tế các nước đi lên phát triển một cách bền vững là phải dựa vào việc nghiên cứu, ứng dụng mạnh mẽ KHCN.

Trong bối cảnh nước ta hiện nay, mô hình tăng trưởng dựa vào tăng vốn đầu tư, lao động giá rẻ và nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái tạo đã không còn thích hợp; nhất là khi mà chỉ số kinh tế tri thức nước ta còn rất thấp; tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, chưa đạt mức trung bình của thế giới; tốc độ đổi mới công nghệ và tỷ trọng giá trị gia tăng thấp. Chính vì vậy, cần đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, phát triển đất nước nhanh và bền vững, theo đó chúng ta phải lựa chọn con đường phát triển tất yếu dựa vào KHCN, nguồn nhân lực chất lượng cao và phát triển tri thức.

PV: Với vai trò là then chốt, là động lực thì quan điểm phát triển của ngành KHCN trong thời gian tới như thế nào, thưa thứ trưởng?

Thứ trưởng Trần Văn Tùng: Có thể nói rằng, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rất rõ, để đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, vượt qua thách thức và tạo đà phát triển đất nước thực sự nhanh và bền vững, bên cạnh việc tập trung sử dụng hiệu quả nguồn lực cho phát triển KHCN và nguồn nhân lực KHCN, phát triển kinh tế tri thức, qua đó, nâng cao hiệu quả đầu tư, thúc đẩy tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế đất nước.

Quan điểm phát triển của ngành được thể hiện qua một số điểm nhấn sau:

Một là, phát triển và ứng dụng KHCN cùng với giáo dục và đào tạo phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển đất nước. KHCN là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của các ngành, các cấp, trong đó, sự lãnh đạo của Đảng có vai trò quyết định, năng lực quản lý của nhà nước và tài năng, tâm huyết của các nhà khoa học là điều kiện tiên quyết.

Hai là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KHCN là khâu đột phá, trong đó, tập trung đổi mới công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển KHCN, phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ chế hoạt động tự chủ của các tổ chức KHCN.

Ba là, nhân lực KHCN là nhân tố quyết định cho sự phát triển KHCN. Đầu tư cho nhân lực KHCN và đãi ngộ tri thức là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước có chính sách phát triển, phát huy và trọng dụng đội ngũ trí thức KHCN.

Bốn là, ưu tiên nguồn lực quốc gia và tạo động lực cho phát triển KHCN. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao tiềm lực và năng lực KHCN quốc gia. Quan tâm đúng mức nghiên cứu cơ bản, tập trung cho nghiên cứu ứng dụng, coi doanh nghiệp là trung tâm của đổi mới công nghệ, là nguồn cầu quan trọng nhất thúc đẩy phát triển thị trường KHCN; trong đó doanh nghiệp KHCN có vai trò đặc biệt quan trọng.

Năm là, chủ động hợp tác và hội nhập quốc tế sâu rộng với định hướng dài hạn và kế hoạch hợp tác quốc tế trung hạn về KHCN là giải pháp rất quan trọng, hiệu quả cao để cập nhật tri thức KHCN tiên tiến của thế giới bổ sung nguồn lực, nâng cao tiềm lực KHCN quốc gia.

PV: Thưa thứ trưởng, với những quan điểm chỉ đạo như vậy thì mục tiêu và những nhiệm vụ cụ thể của ngành đề ra là gì?

Thứ trưởng Trần Văn Tùng: Ngành KHCN xác định, trong thời gian tới chúng tôi sẽ tạo được những chuyển biến về chất trong đóng góp của KHCN để nâng cao năng suất, chất lượng và sức mạnh của nền kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

Những mục tiêu cụ thể, chúng tôi xác định: đến năm 2020, Việt Nam sẽ có một nền KHCN phát triển nằm trong nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiến tiến trên thế giới; tiềm lực KHCN đáp ứng các yêu cầu cơ bản của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Phát triển đồng bộ khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Khoa học xã hội và nhân văn đảm bảo cung cấp kịp thời luận cứ khoa học cần thiết cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước. Khoa học tự nhiên đảm bảo nền tảng hiện đại cho khoa học và công nghệ nói chung, ở một số lĩnh vực đạt trình độ cao của khu vực và thế giới. Khoa học kỹ thuật và công nghệ tập trung làm chủ, ứng dụng và phát triển các công nghệ có ảnh hưởng quyết định đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, tạo ra các sản phẩm mới có tính cạnh tranh cao.

Đến năm 2020, hoạt động KHCN thông qua yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp khoảng 35% tăng trưởng kinh tế. Xây dựng được một số sản phẩm quốc gia thương hiệu Việt Nam. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 40% tổng giá trị sản xuất công nghiệp; tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt khoảng 20%/năm; giá trị giao dịch của thị trường KHCN tăng trung bình khoảng 15%/năm.

Hình thành đội ngũ cán bộ KHCN đồng bộ, trình độ cao, trung thực, tận tụy, tâm huyết. Phát triển các tập thể KHCN mạnh, các nhà khoa học đầu ngành và tổng công trình sư trình độ cao. Số cán bộ nghiên cứu và phát triển đạt mức 11 người trên một vạn dân. Số lượng các công bố quốc tế tăng trung bình khoảng 15%/năm, tăng nhanh số lượng các sáng chế được bảo hộ trong nước và ở nước ngoài. Phát triển mạnh các doanh nghiệp KHCN.

PV: Để đạt được những mục tiêu như Thứ trưởng vừa nói, nhiệm vụ của ngành trong thời gian trước mắt và lâu dài là gì?

Thứ trưởng Trần Văn Tùng: Với những mục tiêu như vậy, trong những năm tới chúng ta cần tập trung nguồn lực và quyết tâm thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, cần đổi mới tư duy, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển KHCN. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng và chính quyền về vai trò, vị trí quan trọng của KHCN trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; xác định, phát huy và phát triển KHCN là nhiệm vụ chính trị, trọng tâm, then chốt của tất cả các cấp ủy đảng và chính quyền. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ KHCN với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội từng ngành và từng cấp; đưa kế hoạch ứng dụng và phát triển KHCN trở thành một cấu phần không thể thiếu của quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương.

Người đứng đầu cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp phải chịu trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo việc phát huy và phát triển KHCN. Coi việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ KHCN là một tiêu chí đánh giá hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của người đứng đầu, của cấp ủy đảng và chính quyền.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KHCN. Đổi mới cơ chế quản lý KHCN phù hợp với đặc thù của hoạt động KHCN, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, phục vụ đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế, phát triển nhanh và bền vững. Đặc biệt chú ý đẩy mạnh thực hiện cơ chế đặt hàng nhiệm vụ KHCN gắn với trách nhiệm sử dụng kết quả phục vụ phát triển đất nước, các ngành và các địa phương. Áp dụng cơ chế khoán kinh phí đến sản phẩm KHCN cuối cùng theo nguyên tắc lựa chọn đúng tổ chức, cá nhân thực hiện, bảo đảm tính hiệu quả kinh tế – xã hội, khả thi và nghiệm thu trên cơ sở kết quả đầu ra.

Giao quyền chủ động cho tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ KHCN trong sử dụng kinh phí. Hoàn thiện cơ chế đánh giá độc lập, tư vấn, phản biện, giám định xã hội trong hoạt động KHCN. Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước mua kết quả KHCN và có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp mua công nghệ từ các viện nghiên cứu, trường đại học trong nước để thúc đẩy nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và ứng dụng rộng rãi kết quả KHCN…

Vấn đề đổi mới hệ thống tổ chức KHCN; do từ trước đến nay hoạt động KHCN được diễn ra không có quy hoạch, chưa được định hướng. Trong khi Bộ KHCN lại không được quản lý việc đầu tư chuyên ngành nên việc phân bổ nguồn lực đầu tư cho KHCN  bị dàn trải, lãng phí. Do đó, các bộ, ngành, địa phương trong thời gian tới cần phải có quy hoạch, kế hoạch cho hoạt động KHCN và gửi kế hoạch về Bộ KHCN để xét duyệt tránh trình trạng đầu tư cho KHCN không đúng mục đích, dàn trải,…

Về đổi mới cơ chế hoạt động của tổ chức KHCN được xác định đẩy mạnh cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bố trí kinh phí hoạt động thường xuyên trong dự toán nhiệm vụ KHCN, nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng của tổ chức KHCN công lập. Đầu tư cho tổ chức KHCN dựa trên kết quả và hiệu quả hoạt động. Tăng cường liên kết giữa các tổ chức KHCN và các doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng, đổi mới công nghệ, đào tạo nhân lực.

Thí điểm thực hiện cơ chế hợp tác công tư, đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ KHCN. Giao quyền sở hữu các kết quả được tạo ra từ hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan chủ trì nhiệm vụ KHCN; có cơ chế phân chia lợi ích giữa Nhà nước, cơ quan chủ trì và tác giả. Các tổ chức được vay vốn ngân hàng, các quỹ dành cho KHCN hoặc các tổ chức tín dụng khác. Hoàn thiện môi trường pháp lý và điều kiện làm việc thuận lợi để khuyến khích lao động sáng tạo; thực hành dân chủ; tôn trọng và phát huy tự do trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của trí thức KHCN,…

Về quy hoạch phát triển nhân lực KHCN, cần đổi mới cơ chế, chính sách sử dụng và trọng dụng cán bộ KHCN. Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ trí thức KHCN, nhất là các chuyên gia đầu ngành trung thực, tận tụy, tâm huyết. Tạo môi trường, điều kiện vật chất, tinh thần thuận lợi để cán bộ KHCN có thể phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình. Nâng cao năng lực, trình độ và phẩm chất của cán bộ quản lý KHCN ở các ngành, các cấp. Có chính sách trọng dụng đặc biệt đối với cán bộ KHCN đầu ngành, cán bộ KHCN được giao chủ trì nhiệm vụ quốc gia, cán bộ KHCN trẻ tài năng,…

Kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy quản lý nhà nước về KHCN theo hướng tinh gọn; tập trung cho xây dựng chiến lược, quy hoạch, cơ chế, chính sách; tăng cường điều phối liên ngành, liên vùng. Phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về KHCN trung ương và địa phương, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu chính quyền địa phương và các bộ, ngành trung ương trong việc chỉ đạo tổ chức thực hiện các hoạt động KHCN trọng điểm thuộc phạm vi quản lý,…

Thứ ba, triển khai các định hướng nhiệm vụ KHCN chủ yếu; trong đó tập trung các nguồn lực chủ yếu, nhất là nguồn vốn ngân sách nhà nước dành cho KHCN để thực hiện thành công các chiến lược, kế hoạch, chương trình, đề án quốc gia về KHCN. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ hoạch định đường lối, chính sách, quốc phòng, an ninh và mục đích công cộng; ưu tiên cho phát triển một số công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ liên ngành; đẩy mạnh ứng dụng và phát triển KHCN trong các ngành, lĩnh vực, vùng và địa phương.

Thứ tư, phát huy và tăng cường tiềm lực KHCN quốc gia. Tập trung đầu tư một số Viện KHCN hàng đầu quốc gia theo mô hình tiên tiến của thế giới; xây dựng tại mỗi vùng kinh tế trọng điểm ít nhất một tổ chức KHCN mạnh gắn với tiềm năng, lợi thế của vùng và liên kết chặt chẽ với các trường đại học trong vùng. Hình thành các tập thể nghiên cứu đủ mạnh, đủ năng lực giải quyết những nhiệm vụ trọng điểm của quốc gia. Phát triển các nhóm nghiên cứu trẻ, có tiềm năng từ các trường đại học, viện nghiên cứu làm hạt nhân hình thành các doanh nghiệp KHCN khởi nguồn từ kết quả nghiên cứu. Trao quyền quyết định kinh phí hỗ trợ đối với nhóm nghiên cứu trẻ tiềm năng cho người đứng đầu cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ, thống nhất quản lý nhà nước về KHCN trên phạm vị cả nước.

Phát triển mạnh lực lượng doanh nghiệp KHCN; hỗ trợ các doanh nghiệp thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển, hình thành quỹ phát triển KHCN của doanh nghiệp. Khuyến khích hình thành các viện nghiên cứu phát triển có vốn đầu tư nước ngoài, các viện nghiên cứu ở nước ngoài thành lập chi nhánh ở Việt Nam.

Thứ năm, phát triển thị trường KHCN trên cơ sở tiếp tục hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo hướng hỗ trợ hiệu quả cho việc vận hành thị trường KHCN. Việc hình thành thị trường KHCN có ý nghĩa rất lớn, tạo ra cho các nhà khoa học có cơ chế, chính sách để nghiên cứu KHCN  có tính ứng dụng cao cho xã hội.

Bên cạnh đó, có chế tài xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật trong giao dịch, mua bán các sản phẩm, dịch vụ KHCN. Phát triển mạng lưới các tổ chức dịch vụ kỹ thuật, môi giới, chuyển giao, tư vấn, đánh giá và định giá công nghệ. Đầu tư xây dựng các sàn giao dịch KHCN quốc gia tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh làm hạt nhân để liên thông với hệ thống các trung tâm dịch vụ hỗ trợ chuyển giao công nghệ của các tỉnh, thành phố, kết nối với các sàn giao dịch công nghệ của khu vực và thế giới.

Xây dựng bộ chỉ số thống kê, đo lường kết quả và hiệu quả hoạt động KHCN của các ngành và địa phương. Phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về KHCN, trong đó, chú trọng dữ liệu kết quả KHCN để phục vụ yêu cầu của các tỉnh, thành phố trong phát triển kinh tế – xã hội; xây dựng và hỗ trợ khai thác cơ sở dữ liệu về công nghệ, chuyên gia công nghệ, kết nối cung – cầu giải pháp sáng tạo và công nghệ mới đáp ứng nhu cầu đổi mới, chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp và yêu cầu của quản lý nhà nước về KHCN.

Thứ sáu, hợp tác và hội nhập quốc tế về KHCN. Xác định rõ đối tác chiến lượng trong hợp tác nghiên cứu chung và địa bàn trọng điểm có công nghệ nguồn cần khai thác, chuyển giao. Tăng cường hợp tác với các viện nghiên cứu hàng đầu thế giới trong triển khai các chương trình nghiên cứu quốc tế, chương trình hợp tác song phương hướng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn của Việt Nam. Xây dựng và triển khai nội dung, kế hoạch hợp tác KHCN tầm quốc gia với các nước mạnh về KHCN và là đối tác chiến lược của Việt nam.

Mở rộng và nâng tầm quan hệ hợp tác với các nước có nền KHCN tiên tiến, chú trọng mua sáng chế, giải mã và chuyển giao công nghệ phục vụ yêu cầu đổi mới công nghệ trong nước, tăng tỷ lệ nội địa hóa công nghệ nhập khẩu và giá trị gia tăng của các sản phẩm xuất khẩu. Hình thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc trên cơ sở hợp tác dài hạn giữa các tổ chức nghiên cứu KHCN của Việt Nam và nước ngoài.

Tập trung tháo gỡ các cơ chế, chính sách về đầu tư, đất đai, cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính và có giải pháp mạnh, hiệu quả, tạo môi trường hấp dẫn để hỗ trợ và thu hút trí thức, doanh nghiệp KHCN của người Việt Nam ở nước ngoài, các nhà khoa học nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, tham gia các chương trình, dự án nghiên cứu, đào tạo nhân lực KHCN, hình thành các nhóm, tập thể KHCN mạnh ở Việt Nam. Tăng cường và phát huy hiệu quả hoạt động của mạng lưới đại diện KHCN Việt Nam ở nước ngoài…

PV: Thưa thứ trưởng, ông vừa nói về những nội dung trong chiến lược của ngành, nhưng làm thế nào để biết người ta đang tư duy thực, nói thực và làm thực và đang tích cực đổi mới nhằm đạt hiệu quả thực của việc đổi mới quản lý nhà nước về KHCN?

Thứ trưởng Trần Văn Tùng: Về điều này, chúng tôi sẽ tăng cường công tác hướng dẫn, giám sát, kiểm tra, đánh giá. Chúng tôi đang xây dựng cơ chế để Nhà nước sẽ giao nhiệm vụ nghiên cứu và cung cấp một khoản kinh phí rồi khi có sản phẩm khoa học sẽ tiến hành thành lập hội đồng đánh giá kết quả nghiên cứu và nghiệm thu cuối cùng. Ví dụ như, đối với sản phẩm khoa học, hội đồng đánh giá sẽ xem xét xem sản phẩm nghiên cứu đó có đáp ứng được yêu cầu hay không? Có mang tính ứng dụng cao hay không? Việc này, hội đồng đánh giá và nghiệm thu sẽ xem xét.

Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ có cơ chế tài chính phù hợp và yêu cầu người nghiên cứu KHCN phải tự chịu trách nhiệm đối với sản phẩm nghiên cứu khoa học của mình. Đề cao vai trò và tính chịu trách nhiệm của người lãnh đạo, người đứng đầu cơ quan, đơn vị…

PV: Thưa thứ trưởng, việc nghiệm thu và đánh giá sản phẩm khoa học cuối cùng thông qua hội đồng đánh giá ở trên chỉ phù hợp với các sản phẩm khoa học ở lĩnh vực khoa học tự nhiên, có tính ứng dụng ngay còn đối với lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội, khoa học quản lý thì chắc chắn chưa đạt hiệu quả như mong muốn?

Thứ trưởng Trần Văn Tùng: Đúng vậy, nhưng các bạn biết rằng trong nghiên cứu KHCN không thể không có sai và nhất là đối với lĩnh vực khoa học xã hội, tính ứng dụng ngay là không có mà sản phẩm nghiên cứu đó có khi còn phải xếp vào tủ đợi nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm sau mới thấy hết được giá trị và ý nghĩa của nó. Điều này không tránh được. Tôi nói ví dụ như các sản phẩm nghiên cứu về biển Đông hay về chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cho Tây Nguyên chẳng hạn. Những kết quả nghiên cứu này trước kia của các nhà khoa học đến bây giờ đặc biệt có giá trị.

Tuy nhiên, đối với các sản phẩm khoa học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, chúng tôi sẽ nghiên cứu cơ chế để giao kinh phí nghiên cứu cho các cơ quan, đơn vị nghiên cứu và kết quả nghiên cứu cuối cùng sẽ do chính các cơ quan, đơn vị đó nghiệm thu và áp dụng, sử dụng; như thế, người đứng đầu cơ quan, đơn vị đó phải chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của cơ quan, đơn vị mình.

PV: Xin cảm ơn thứ trưởng, nhân dịp năm mới 2014, Tạp chí xin chúc ngành KHCN thành công và hoàn thành xuất sắc kế hoạch đề ra.

Thứ trưởng Trần Văn Tùng: Cảm ơn các bạn. Nhân dịp năm mới, tôi gửi lời chúc đến tập thể cán bộ, biên tập viên, bạn đọc của Tạp chí Quản lý nhà nước một năm mới An khang – Thịnh vượng!

Thúy Vân thực hiện