Giải pháp tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam theo hướng phát triển bền vững

(QLNN) – Đại hội XI của Đảng (năm 2011) đề ra nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và được Đại hội XII (năm 2016) khẳng định tiếp tục đẩy mạnh triển khai cho thời kỳ 2016 – 2020 với mục tiêu tạo lập được mô hình tăng trưởng kinh tế hiệu quả hơn, bền vững hơn. Bài viết thảo luận thêm về chủ đề này thông qua việc tập trung phân tích những cơ hội và thách thức nhìn từ xu hướng dài hạn và một số giải pháp chủ yếu để bảo đảm việc thực hiện tái cơ cấu, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển bền vững ở Việt Nam.

 

Cơ hội và thách thức của tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam

Từ Đại hội XI của Đảng (năm 2011) đến nay, khi vấn đề tái cơ cấu (TCC) nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng được đặt ra, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành rất nhiều văn bản về chủ trương, đường lối và các chính sách cụ thể để thực hiện nhiệm vụ này. Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành nhiều quyết định phê duyệt các đề án TCC của các bộ, ngành, tập đoàn, tổng công ty.

Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, các hướng trọng tâm của TCC được xác định là: (1) TCC đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; (2) TCC hệ thống các tổ chức tín dụng, trọng tâm là các ngân hàng thương mại; (3) TCC doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. Việc ban hành các quyết định phê duyệt đề án TCC và chuyển đổi mô hình tăng trưởng vẫn còn đang tiếp tục cho tới nay.

Đồng thời, cũng từ đó đến nay, không năm nào không có các hội thảo, hội nghị bàn về chủ đề chuyển đổi mô hình tăng trưởng và TCC kinh tế. Tuy nhiên, đánh giá gần đây nhất của Đảng tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng (tháng 11/2016) đã nhận định: “Mô hình tăng trưởng về cơ bản vẫn theo mô hình cũ, chậm được đổi mới; … Cơ cấu lại nền kinh tế triển khai chậm, thiếu đồng bộ, chưa thật sự gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; chưa gắn kết chặt chẽ giữa tổng thể với các trọng tâm”. Nghĩa là, vẫn còn rất nhiều việc cần làm, cần được nghiên cứu, tháo gỡ. Thực hiện “cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng” được xác định là nội dung chính của một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng.

Trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện TCC nền kinh tế của Việt Nam có những cơ hội có thể tận dụng để đẩy nhanh tiến trình này, đó là:

(1) Việc triển khai một số nội dung trọng yếu của TCC (TCC đầu tư công, TCC các ngân hàng thương mại, và TCC các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước) đã được tiến hành qua 6 – 7 năm, dù chậm so với mong đợi nhưng cũng ít nhiều có kinh nghiệm, tri thức nhất định về lĩnh vực này, từ đó giúp ích rất nhiều cho việc thúc đẩy thực hiện TCC trong thời gian tới.

(2) Quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam cũng cho chúng ta thấy nhiều kinh nghiệm có thể học hỏi và áp dụng. Từ đó, có thể giúp rút ngắn thời gian và nâng cao hiệu quả quá trình TCC. Đồng thời, sự hình thành các mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu cũng mở ra những cơ hội nhất định cho các nước chậm phát triển, đang công nghiệp hóa tiến hành TCC nền sản xuất và gia nhập vào thị trường toàn cầu.

(3) Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 được đánh giá là sẽ có những bước tiến mang tính bước ngoặt, tác động rất mạnh tới mô hình và cơ cấu phát triển kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa của mọi quốc gia. Sự xuất hiện của cách mạng 4.0 lần đầu tiên mở ra cơ hội cùng đồng hành của mọi nền kinh tế trong cuộc đua đến tương lai, nên đang có sức lôi cuốn, cổ vũ to lớn đối với những nước đi sau như Việt Nam.

Bên cạnh những cơ hội nêu trên, việc thực hiện TCC kinh tế cũng phải đối mặt với những thách thức, đó là:

(1) Thời gian TCC nếu để lâu đến mức trở thành trì trệ thì sẽ mất đà và mất đi động lực. Vì vậy, xác định một kế hoạch hành động rõ ràng theo lộ trình, có đánh giá kết quả triển khai là việc làm cần thiết.

(2) Sức ép cạnh tranh của toàn cầu hóa biểu hiện cụ thể ở sự hiện diện của hàng hóa, nhân lực của nước ngoài ngay trên thị trường trong nước là một thách thức rất lớn khi mà năng suất lao động, trình độ công nghệ… của Việt Nam còn có khoảng cách không nhỏ so với các nước.

(3) Cuộc chạy đua tốc độ với cách mạng 4.0 trên thực tế sẽ có ưu thế cho những nền kinh tế đã chuẩn bị được những tiền đề tốt hơn về nhân lực, hạ tầng, công nghiệp, thị trường, thể chế… So với nhiều nước, sự chuẩn bị những hành trang cần thiết để sẵn sàng cho cách mạng 4.0 mới chỉ được một số mặt, còn nhìn tổng thể thì phải nỗ lực rất nhiều mới đáp ứng tốt được những đòi hỏi của thực tiễn.

(4) Nguồn vốn đầu tư để tiến hành TCC kinh tế, nhất là để thay đổi các thế hệ công nghệ và đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động là rất lớn. Vì vậy, đối với các nước nghèo, nguồn vốn đầu tư ít ỏi luôn là một khó khăn, thách thức rất lớn.

(5) Việc tiếp tục duy trì động lực của đổi mới trong bối cảnh đã trải qua thời gian khá dài (30 năm), nhưng vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, chậm chạp… mà nguyên nhân phần lớn lại là phía chủ quan. Vì vậy, những sức cản về nhận thức, sự quyết tâm, cách thức triển khai… nếu không vượt qua được thì sẽ là một thách thức rất lớn của quá trình TCC và đổi mới mô hình tăng trưởng.

Cảng Hải Phòng. Nguồn: kienthuc.net.vn

Các giải pháp chủ yếu thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam theo hướng phát triển bền vững trong thời gian tới

Thứ nhất, hoàn thành quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.

Việc hoàn thành quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường (định hướng xã hội chủ nghĩa) là nội dung đã được đề cập đến rất nhiều, nhưng trong giai đoạn đến 2020 (và tầm nhìn 2030) nên tập trung vào một số trọng tâm chủ yếu sau:

(1) Tuân thủ đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường, lấy mốc năm 2018 (mốc xác định được công nhận là kinh tế thị trường theo cam kết khi gia nhập WTO) làm thời điểm phấn đấu hoàn thành quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường đầy đủ, thực chất. Đến thời điểm đó, cơ chế thị trường được áp dụng một cách rộng rãi, phổ biến (bao gồm cả lĩnh vực cung ứng dịch vụ công).

(2) Thực hiện nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu trên tinh thần Điều 33 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”, được thể chế hóa thành các chính sách cụ thể.

(3) Phát triển mạnh thị trường quyền sử dụng đất, bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, nhất là đối với đất nông nghiệp để khuyến khích tích tụ, tập trung ruộng đất. Áp dụng rộng rãi chế độ đấu thầu quyền sử dụng đất và khai thác tài nguyên.

(4) Phát triển thị trường lao động theo hướng tạo thuận lợi cho việc tự do dịch chuyển lao động; sớm triển khai chủ trương bãi bỏ chế độ quản lý con người bằng hộ khẩu.

(5) Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu tham gia cung cấp dịch vụ công dưới nhiều hình thức. Các chính sách của Nhà nước đối với cung ứng dịch vụ công phải bảo đảm bình đẳng, không phân biệt giữa đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập. Đối với những loại hàng hóa và dịch vụ công thiết yếu mà Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho đối tượng chính sách, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số… thì thực hiện trực tiếp tới tay các đối tượng hưởng thụ, thay cho cách làm thông qua người cung cấp và qua giá như trước đây.

Thứ hai, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước.

Đây là vấn đề đã được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần, thực tế cũng đã triển khai và đạt nhiều kết quả. Nhưng so với yêu cầu thì còn nhiều việc phải làm tiếp và quan trọng hơn có lẽ cần thay đổi cách làm đối với một số việc, cụ thể:

(1) Thí điểm áp dụng cách làm mới trong việc xây dựng một số văn bản pháp luật theo nguyên tắc những người trực tiếp thực thi pháp luật ở lĩnh vực nào thì không trực tiếp tự xây dựng các văn bản pháp lý để thực thi. Có thể tổ chức bằng cách triệu tập nhóm các chuyên gia từ các đơn vị khác nhau để cùng xây dựng một văn bản pháp luật, (tổ chức dưới hình thức một Hội đồng/ban/tổ…), sau khi dự thảo, được các cơ quan và các bên liên quan góp ý, sửa chữa, được cơ quan có thẩm quyền thẩm định, thông qua. Lúc đó, Hội đồng/ban/ tổ… xây dựng văn bản đó coi như hoàn thành nhiệm vụ và giải thể.

(2) Áp dụng quy trình quản lý công vụ tiên tiến (theo quy chuẩn ISO), công khai, minh bạch; đổi mới cách thức giám sát, đánh giá việc thực thi pháp luật. Đây là cách thức mà nhiều nền kinh tế tiên tiến đã và đang làm thường xuyên.

(3) Thí điểm đổi mới cơ chế phân cấp theo hướng phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm trong quản lý kinh tế – xã hội giữa trung ương và địa phương; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh tế – xã hội đối với chính quyền các cấp; bao gồm cả cơ chế phân cấp đầu tư, ngân sách, bảo đảm quản lý thống nhất quốc gia về quy hoạch phát triển và cân đối nguồn lực. Các cấp chính quyền địa phương tập trung vào cung cấp dịch vụ công, bảo đảm công ăn việc làm, an sinh và an toàn xã hội, nâng cao phúc lợi, cải thiện đời sống cho người dân và bảo vệ môi trường.

(4) Sớm ban hành Luật về Đặc khu Hành chính – kinh tế để có cơ sở triển khai ngay trong thực tế.

(5) Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế, bảo đảm đầy đủ, kịp thời để nhận dạng sớm những “bong bóng kinh tế” có thể gây nên rủi ro “đổ vỡ”. Về dài hạn, cần xây dựng một lộ trình “đuổi kịp” hệ thống các chỉ tiêu thống kê theo thông lệ quốc tế cho cả giai đoạn đến 2020, cả về số lượng các chỉ tiêu lẫn phương pháp tính, bảo đảm thực hiện mục tiêu “phù hợp với tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế”.

Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực có phẩm chất tốt, kỹ năng chuyên môn cao.

Theo đó, cần tập trung vào các giải pháp sau:

– Cải cách giáo dục: phải thật sự chấn hưng giáo dục để nâng cao mặt bằng trí tuệ xã hội, để đội ngũ lao động có thể đáp ứng đòi hỏi của cách mạng 4.0.

– Đổi mới chế độ tuyển chọn, sử dụng nhân lực: theo hướng,“phải tạo cơ hội bình đẳng trong việc tuyển dụng, đề bạt mới phát huy tối ưu khả năng của đất nước và mới tạo khí thế hăng say làm việc…”[1].

– Cải cách chế độ tiền lương: tạo cơ sở cho việc định hướng đào tạo và sử dụng nhân lực, đặc biệt là nhân tài.

– Đổi mới khung chương trình: trong đó, quan tâm hơn đến yêu cầu tăng cường kỹ năng sống, tăng cường giáo dục thể chất, giảm tải nội dung trong các bậc học phổ thông; nâng cao kiến thức chuyên sâu và tác phong công nghiệp trong đào tạo nghề; phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu ở bậc đại học.

– Phát triển hợp lý  và bảo đảm bình đẳng giữa giáo dục công lập và giáo dục ngoài công lập.

– Thí điểm chuyển đổi mô hình trường công lập sang cơ sở giáo dục do cộng đồng, doanh nghiệp quản lý và đầu tư phát triển.

Thứ tư, phát triển nền khoa học – công nghệ phục vụ phát triển kinh tế.

(1) Bảo đảm cơ sở hạ tầng thiết yếu cho hoạt động nghiên cứu và triển khai. Cùng với việc bảo đảm xây dựng các công trình kiến trúc (nhà xưởng, phòng làm việc, trang thiết bị máy móc, xưởng sản xuất thử, dụng cụ thí nghiệm,…), cần khẩn trương hoàn thiện hơn nữa hệ thống thông tin khoa học công nghệ (KHCN) quốc gia, đặc biệt là những thông tin KHCN mới, cập nhật của thế giới. Đối với một số lĩnh vực khoa học, nên thành lập một hội đồng thông tin và dịch thuật quốc gia. Hội đồng này tuy thuộc lĩnh vực một hoặc liên ngành KHCN nào đó, nhưng ở tầm quốc gia, có nhiệm vụ tuyển chọn và dịch thuật, xuất bản những ấn phẩm liên quan đến lĩnh vực khoa học của mình (đây là kinh nghiệm của Nhật Bản).

(2) Cần tạo ra cơ chế khiến khu vực kinh doanh phải chủ yếu dựa vào việc ứng dụng những thành quả của KHCN mà phát triển. Tức là phải thực sự tạo ra thị trường KHCN. Tinh thần cơ bản để giải quyết vấn đề này là: lấy doanh nghiệp (bên cầu, người mua) làm trung tâm; tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan nghiên cứu khoa học (bên cung, người bán), để tạo cho thị trường KHCN hoạt động, coi đó như một phương cách thúc đẩy KHCN phát triển.

(3) Xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học đủ mạnh, bảo đảm cho nền kinh tế có cơ sở nội sinh về KHCN vững mạnh. Trước mắt, ưu tiên xây dựng và phát triển Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc (V-KITS) và ban hành chính sách cụ thể về trọng dụng và tôn vinh đội ngũ KHCN.

Thứ năm, đổi mới cách thức phát triển kết cấu hạ tầng (KCHT) và phát triển hợp lý, hài hòa giữa các vùng.

Theo đó, trước mắt, việc phát triển hệ thống KCHT cần tuân thủ một số nguyên tắc chủ yếu sau:

(1) Bảo đảm tính hiệu quả tổng thể và tầm nhìn xa. Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta phải có tầm nhìn xa, tính toán một cách khoa học trong việc lập chiến lược dài hạn, quy hoạch, có kế hoạch thứ tự ưu tiên cũng như việc thiết kế, lựa chọn công nghệ, thiết bị phù hợp. KCHT còn là loại hàng hóa công cộng có tính phục vụ cộng đồng cao. Vì vậy, cần đánh giá hiệu quả kinh tế tổng thể, xem xét đến tính phục vụ công cộng.

(2) Bảo đảm tính đồng bộ, hoàn chỉnh: việc giải quyết những yếu kém về KCHT sẽ tạo ra bước phát triển vượt bậc của các loại hàng hóa, phát triển nông nghiệp, nông thôn, giảm chi phí sản xuất, chi phí gia nhập thị trường, giảm nhanh đói nghèo ở các vùng sâu, vùng xa và vùng cao. Các giải pháp chính sách cụ thể gồm: (i) Nâng cao tính khoa học trong việc xây dựng quy hoạch và hiệu lực quản lý quy hoạch phát triển hệ thống KCHT; (ii) Mở rộng các hình thức huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển KCHT; (iii) Các công trình trọng điểm trong thời gian tới nên tập trung cao độ cho việc xây dựng hệ thống đường sắt theo chuẩn quốc tế và điện khí hóa, sân bay Long Thành và đường bộ cao tốc phía Đông dọc theo ven biển, các đặc khu hành chính – kinh tế…

Thứ sáu, bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.

Về bảo đảm an sinh xã hội, cần chú trọng vào những chính sách chủ yếu sau:

(1) Chính sách tạo việc làm và chống thất nghiệp: Giai đoạn 10 – 20 năm tới được dự báo sẽ diễn ra quá trình đô thị hóa nhanh. Một đặc điểm dễ gây ra sự xáo trộn lớn và đột ngột đối với một phận cư dân nông thôn buộc phải chuyển nghề do đất canh tác nông nghiệp chuyển mục đích sử dụng thành đất xây dựng đô thị. Tình trạng thất nghiệp “cưỡng bức” có thể vì vậy mà tăng lên. Nếu không có các chính sách chủ động giải quyết việc làm, nền kinh tế có thể sẽ gặp phải tình trạng bất ổn về cả về phương diện kinh tế lẫn xã hội. Trong tình hình như vậy, việc thực thi những quy định ràng buộc các đơn vị sử dụng đất nông nghiệp chuyển đổi sang đất đô thị và công nghiệp phải giải quyết việc làm hoặc chuyển đổi nghề cho những người nông dân có liên quan là cần thiết.

(2) Chính sách chống đói nghèo và tái đói nghèo: vì chưa thoát khỏi tình trạng nước nghèo được bao xa nên lượng người nghèo và cận nghèo vẫn còn khá lớn, nhất là tính theo chuẩn nghèo quốc tế. Để có cái nhìn khách quan và có thể so sánh quốc tế, trên cơ sở đó xác định những giải pháp hợp lý, đề nghị nên sử dụng thống nhất một mức chuẩn nghèo quốc gia, áp dụng cho mọi tỉnh, thành phố và áp dụng luôn mức chuẩn nghèo quốc tế. Còn về giải pháp căn bản và lâu dài vẫn là hỗ trợ giáo dục và đào tạo nghề cho người nghèo ở một phía và tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích tăng cường đầu tư và sử dụng lao động là người nghèo ở phía khác.

(3) Các chính sách bảo đảm an ninh, an toàn cuộc sống: phòng, chống và hạn chế thiệt hại do các rủi ro về thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu; ngăn ngừa và chủ động xóa bỏ các loại tội phạm; hỗ trợ những người dễ bị tổn thương; đề cao phẩm giá, sự chân thành, tín nghĩa, xây dựng đời sống xã hội văn minh.

(4) Các chính sách tạo sự đồng thuận xã hội: Trước mắt, cần có các giải pháp tạo điều kiện và khuyến khích hộ nghèo, cận nghèo phấn đấu tự vươn lên thoát nghèo bền vững. Về dài hạn, cần nghiên cứu các chính sách hỗ trợ sự phát triển mạnh mẽ tầng lớp trung lưu, trở thành tầng lớp chiếm số đông trong xã hội.

Về bảo vệ môi trường sinh thái, cần thực hiện nghiêm ngặt các quy định pháp lý về bảo vệ môi trường, trong đó đặc biệt chú ý bảo đảm quy trình phê duyệt và giám sát việc thực hiện các dự án đầu tư. Quy định rõ ràng trách nhiệm của các bên liên quan đến việc phê duyệt, thẩm định dự án, quản lý môi trường và của các nhà đầu tư kinh doanh, nhất là những dự án có nguy cơ cao đối với việc gây ô nhiễm môi trường. Khuyến khích những nghiên cứu khoa học và áp dụng vào sản xuất những công nghệ không gây ô nhiễm môi trường và hình thành các ngành, nghề kinh tế mới thân thiện với môi trường. Triển khai áp dụng chỉ tiêu thống kê GDP xanh, hạch toán tăng trưởng có tính tới yếu tố môi trường. Thực hiện việc đấu thầu quyền khai thác đất và tài nguyên khoáng sản. Hạn chế xuất khẩu khoáng sản thô…

Thứ bảy, mở cửa, hội nhập quốc tế.

Xét về cơ bản và lâu dài, giải pháp về mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam cần được triển khai ở ba khía cạnh chủ yếu sau:

(1) Hài hòa hóa các cơ chế, chính sách quản lý các hoạt động kinh tế, trong đó những chuẩn mức quản lý mang tính kỹ thuật thì nên theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

(2) Cần lấy việc du nhập tri thức, công nghệ, kỹ thuật, thiết bị, phương thức kinh doanh… hiện đại của thế giới làm mục tiêu trực tiếp của việc lựa chọn đối tác để có hướng ưu tiên tiếp cận. Tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu là một chỉ tiêu phản ánh thành tựu quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, nhưng sử dụng nguồn ngoại tệ ấy để nhập khẩu những công nghệ – thiết bị – kỹ thuật hiện đại để phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách có hiệu quả còn là một chỉ tiêu phản ánh thành tựu về kinh tế đối ngoại tốt hơn nhiều.

(3) Cần xác định rõ một chiến lược thị trường (đối tác) và dành sự nỗ lực cho việc giành và giữ thị phần ở các thị trường đó. Khi đặt vấn đề như vậy, rõ ràng là hướng thị trường được ưu tiên sẽ phải là những thị trường gồm những trung tâm kinh tế và KHCN tiên tiến trên thế giới, như: Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU. Ngoài ra, Trung Quốc cũng là thị trường đang mở ra những cơ hội trước nay chưa từng có đối với Việt Nam (chứ không phải chỉ là sự cạnh tranh gay gắt với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam). Do đó, cần có một chiến lược rõ ràng hơn, dứt khoát hơn đối với lĩnh vực xác định và chọn lựa thị trường chiến lượcr

Chú thích:
1. Trần Văn Thọ. Công nghiệp hóa Việt Nam trong thời đại châu Á – Thái Bình Dương. NXB TP. Hồ Chí Minh. Thời Báo Kinh tế Sài Gòn và VAPEC, 1997.
Tài liệu tham khảo:
1. Võ Đại Lược. Kinh tế Việt Nam – Đổi mới và phát triển. H. NXB Thế giới, 2007.
2. Robert Wade. Điều tiết thị trường: Lý thuyết kinh tế và vai trò của Chính phủ trong công nghiệp hóa ở Đông Á. H. NXB Chính trị quốc gia, 2005.
3. Tái cơ cấu kinh tế để phục hồi tốc độ tăng trưởng. H. NXB Khoa học xã hội, 2014.
4. Hướng tới một nền kinh tế phát triển bền vững. H. NXB Khoa học xã hội, 2014.
5. Bùi Tất Thắng (Chủ biên). Phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam – thời kỳ 2011 – 2020. H. NXB Khoa học xã hội, 2010.

PGS.TS. Bùi Tất Thắng
Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư