Nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội đối với hệ thống tư pháp

(QLNN) – Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam… Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước1. Giám sát nhằm bảo đảm sự thống nhất của pháp luật, tránh những hiện tượng vi hiến, trái luật, xây dựng nhà nước pháp quyền, trong đó pháp luật đóng vai trò quan trọng trong quản lý xã hội.

Đại biểu Quốc hội Triệu Thị Thu Phương (Ảnh: https://hdnd.backan.gov.vn).
Thẩm quyền giám sát của Quốc hội đối với hệ thống tư pháp

Hiến pháp năm 2013 quy định: Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập. Đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc hủy bỏ các văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH2.

Quyền giám sát của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội được quy định tại Điều 75 – 77 của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Quốc hội và các văn bản pháp luật khác.

Các hình thức giám sát của Quốc hội đối với hoạt động tư pháp gồm: xét báo cáo hoạt động của cơ quan tư pháp; giám sát việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan tư pháp; chất vấn và xem xét việc trả lời chất vấn; bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ trong cơ quan tư pháp do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; thành lập Ủy ban lâm thời giám sát; tổ chức đoàn giám sát đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Yêu cầu đối với hoạt động giám sát hệ thống tư pháp là bảo đảm công khai, khách quan và phải bảo đảm ở tất cả các khâu, (từ theo dõi, xem xét đến đánh giá; từ thu thập thông tin đến kiến nghị; bảo đảm đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát; bảo đảm nguyên tắc hoạt động của các cơ quan này, nhất là nguyên tắc độc lập chỉ tuân thủ theo pháp luật trong hoạt động xét xử).

Theo quy định của pháp luật tùy theo chủ thể thực hiện quyền giám sát mà hậu quả giám sát có thể là yêu cầu khắc phục, sửa chữa những vi phạm pháp luật; trực tiếp hủy bỏ hoặc kiến nghị, đề nghị, yêu cầu hủy bỏ một số phần hay toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật, nghị quyết trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH. Việc giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp là điểm cần đặc biệt lưu ý để bảo đảm đúng pháp luật và nguyên tắc hoạt động của các cơ quan này, nhất là đối với hoạt động xét xử.

Hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội đã được tiến hành thông qua việc xem xét các báo cáo của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giao cho UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội giám sát và xem xét kết quả giám sát của các cơ quan tư pháp, chất vấn những người đứng đầu cơ quan này về các vấn đề liên quan đến hoạt động tư pháp.

Trên cơ sở giám sát, Quốc hội kịp thời yêu cầu cơ quan tư pháp phát huy những ưu điểm, khắc phục những nhược điểm, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động tư pháp và giám sát hoạt động tư pháp. Điều 71 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 đã quy định cụ thể hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Tư pháp.

Thực trạng giám sát của Quốc hội đối với hoạt động tư pháp

Theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và có những bước tiến trong hoạt động. Vai trò của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước được xác định rõ hơn và trong tổ chức thực hiện đã có những bước tiến nhất định.

Quốc hội đã có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động. Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện. Hoạt động giám sát của Quốc hội đã tập trung vào những vấn đề cấp thiết, quan trọng nhất của đất nước. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, các dự án, công trình trọng điểm quốc gia có chất lượng và thực chất hơn. UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có nhiều đổi mới về nội dung, phương pháp công tác; trách nhiệm các đại biểu Quốc hội được nâng cao hơn.

Quốc hội đã tăng cường công tác xây dựng pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động tư pháp, sửa đổi, bổ sung nhiều quy định của pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp, thi hành án, luật sư, công chứng, giám định tư pháp theo đúng chủ trương, định hướng lớn nêu trong Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng cải cách tư pháp.

Nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp đã được thể chế trong Hiến pháp, pháp luật và được triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt kết quả quan trọng. Tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn; chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, hạn chế đáng kể tình trạng oan, sai.

Bên cạnh những kết quả đạt được, giám sát của Quốc hội đối với hoạt động tư pháp vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Cụ thể:

Một là, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động giám sát chưa hoàn thiện, còn chậm được sửa đổi, bổ sung; thu thập chứng cứ trong các giai đoạn giám sát chưa có những quy định pháp lý cụ thể.

Chẳng hạn, trong khi thực thi nhiệm vụ, đoàn giám sát tiến hành thu thập tài liệu chứng cứ, nhưng vấn đề đặt ra là tài liệu như thế nào được coi là chứng cứ, những tài liệu nào không được coi là chứng cứ? Đây là một vấn đề gây khó khăn cho việc thực hiện công tác giám sát. Đối với tòa án, phạm vi giám sát trong hoạt động xét xử quá rộng, dẫn đến có những việc quan điểm của đoàn giám sát và cơ quan tòa án không thống nhất với nhau, (ví dụ khi giám sát một vụ án thì có những quan điểm khác nhau giữa đoàn giám sát và tòa án trong việc đánh giá chứng cứ).

Hai là, trình độ về pháp luật và năng lực giám sát của một số đại biểu Quốc hội còn hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng giám sát. Có thể thấy, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung và đối với hoạt động tư pháp nói riêng, trước hết phụ thuộc vào hoạt động giám sát của các đại biểu Quốc hội.

Tuy nhiên, hoạt động tư pháp là hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp, để giám sát hiệu quả, đòi hỏi đại biểu Quốc hội phải có trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, (nhất là chuyên môn, nghề nghiệp pháp lý), mà điều này thì không phải đại biểu Quốc hội nào cũng đáp ứng được.

Bên cạnh đó, tâm lý nể nang, né tránh, ngại va chạm chưa được khắc phục; vai trò, trách nhiệm và tính chủ động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong hoạt động giám sát chưa cao. Ngoài ra, việc chưa quan tâm một cách đúng mức và hợp lý đến những điều kiện cần và đủ để đại biểu Quốc hội hoạt động, thực hiện quyền hạn của mình trong hoạt động giám sát cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả công tác giám sát. Bởi vì, muốn thực hiện tốt quyền giám sát tối cao, Quốc hội, đại biểu Quốc hội phải tiến hành các hoạt động xem xét, theo dõi, đi kiểm tra thực tế.

Ba là, công tác giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật còn yếu. Quốc hội có chức năng giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản pháp quy do cơ quan nhà nước ban hành và giám sát tính hợp pháp, hợp lý trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Như vậy, đối tượng giám sát của Quốc hội là rất rộng, nội dung mà Quốc hội cần giám sát cũng rất đa dạng và phức tạp trên mọi lĩnh vực đời sống… Trong khi số lượng các văn bản rất lớn, việc đảm đương nhiệm vụ xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản pháp quy khác do cơ quan nhà nước ban hành là một thách thức đối với năng lực giám sát có hạn của Quốc hội.

Ảnh: http://cpv.org.vn/thoi-su

Bốn là, công tác giám sát đối với hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tối cao chưa bao quát hết các lĩnh vực, các giai đoạn tố tụng. Việc giám sát mới chỉ dừng lại ở nghe cơ quan địa phương báo cáo và sau khi giám sát cũng chỉ mới đưa ra những đánh giá, kiến nghị mà chưa theo dõi, đôn đốc sát sao việc thực hiện kiến nghị đó. Công tác tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn thư để giám sát hoặc chuyển đến cơ quan hữu quan, đôn đốc và theo dõi việc giải quyết các đơn thư còn bất cập, chưa kịp thời và trách nhiệm chưa rõ.

Những hạn chế nói trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do quy định của pháp luật về giám sát vẫn chưa cụ thể, nhất là nội dung giám sát và hậu quả pháp lý của cuộc giám sát. Những vướng mắc trong giám sát phần lớn là do chưa có quy trình, thiếu cơ chế phối hợp, thiếu chế tài xử lý, các quyết định giám sát không có hiệu lực pháp lý, khó quy trách nhiệm…

Trở ngại lớn đối với giám sát là thiếu thông tin. Rõ ràng, giám sát đòi hỏi phải có thông tin về đối tượng giám sát, năng lực của cơ quan giám sát và thực quyền trong việc theo dõi, bắt buộc, đôn đốc đối tượng giám sát phải cải thiện tình hình, có phản ứng tích cực. Nhưng thực tế, nhiều khi trong công tác của Quốc hội vẫn còn thiếu các yếu tố này và phải giải quyết trong tình trạng thiếu thông tin.

Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội đối với hệ thống tư pháp

Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội đối với hệ thống tư pháp là một trong các nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN. Để thực hiện nhiệm vụ này, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Hoàn thiện cơ chế để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung, giám sát đối với hoạt động tư pháp nói riêng. Tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội và giám sát của nhân dân.

Thứ hai, nghiên cứu làm rõ khái niệm và phạm vi giám sát hoạt động tư pháp để vừa bảo đảm quyền giám sát tối cao của Quốc hội, vừa bảo đảm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là các văn bản pháp luật quy định về giám sát của Quốc hội đối với hoạt động tư pháp, tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động giám sát của Quốc hội, đại biểu Quốc hội; bảo đảm cho hoạt động giám sát có hiệu quả, qua đó, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.

Quá trình hội nhập quốc tế hiện nay đòi hỏi những thay đổi trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; yêu cầu xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, không mâu thuẫn, chồng chéo, rõ ràng, minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Hoàn thiện các quy định của pháp luật để làm cơ sở cho hoạt động giám sát tư pháp của Quốc hội; cụ thể hóa hơn nữa các quy định trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội.

Thứ tư, tăng cường hơn nữa số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách có kiến thức, trình độ pháp luật nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội đối với văn bản quy phạm pháp luật và hoạt động tư pháp. Tạo điều kiện thuận lợi về các mặt (thông tin, phương tiện, kinh phí, con người) để Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát tư pháp. Đồng thời, cần tổ chức tổng kết hoạt động giám sát tư pháp để Quốc hội có nghị quyết chuyên đề về vấn đề này./.

Chú thích:
1, 2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. H. NXB Lao động – xã hội, 2013, tr. 33, 38.
Tài liệu tham khảo:
1. Mongtesquieu. Tinh thần pháp luật. H. NXB Giáo dục, 1996.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011.
                                                     ThS. Vũ Thị Mỹ Hằng
 Học viện Hành chính Quốc gia