Đẩy mạnh cải cách tư pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

(QLNN) – Cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa luôn là nội dung được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Thời gian qua, hoạt động cải cách tư pháp đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tổ chức bộ máy tòa án, viện kiểm sát, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn; chất lượng hoạt động được nâng cao. Tuy nhiên, “Việc triển khai một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn chậm; vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, oan, sai, bỏ lọt tội phạm”1. Vì vậy, việc đẩy mạnh cải cách tư pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vẫn đang được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết.

Ảnh: Phapluatdansinh.vn
Một số kết quả trong thực hiện cải cách tư pháp ở Việt Nam

Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương xây dựng và duy trì một nền tư pháp cách mạng nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ trương về cải cách tư pháp (CCTP) đã được đề ra trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng (lần thứ IX, X, XI, XII).

Đặc biệt, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược CCTP đến năm 2020, trong đó xác định mục tiêu chiến lược là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN); hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.

CCTP được triển khai theo 4 định hướng cơ bản: hoàn thiện thể chế hình sự, dân sự, thủ tục tư pháp; cải cách tổ chức các cơ quan tư pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp mà trung tâm là tòa án và khâu đột phá là tăng cường tranh tụng dân chủ; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp; đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.

Như vậy, Nghị quyết số 49-NQ/TW được ban hành phù hợp với tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, hội nhập quốc tế. Bước vào những năm đầu thế kỷ XXI, CCTP được triển khai từng bước đồng bộ với cải cách hành chính nhằm đổi mới tổng thể bộ máy nhà nước theo các nguyên tắc pháp quyền, thúc đẩy đổi mới chính trị theo kịp và đáp ứng tốt hơn đòi hỏi của đổi mới kinh tế.

Ngày 19/9/2011, Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 39-QĐ/TW thành lập Ban Chỉ đạo CCTP Trung ương nhiệm kỳ 2011 – 2016. Đây là cơ quan tham mưu, giúp Bộ Chính trị chỉ đạo việc triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về công tác CCTP. Dưới sự chỉ đạo sát sao của Ban Chỉ đạo CCTP Trung ương, các ban cán sự đảng, đảng đoàn các cơ quan tư pháp Trung ương và ban chỉ đạo CCTP của các tỉnh ủy, thành ủy công tác CCTP đã đạt được những kết quả quan trọng.

Các luật gia, luật sư của Hội luật gia tỉnh (bên phải) tư vấn pháp lý miễn phí tại các bàn cho hội viên nông dân xã Phú Thạnh (Ảnh: baodongnai.vn)

Thứ nhất, về hoàn thiện thể chế hình sự, dân sự, thủ tục tư pháp.

Sau khi Nghị quyết số 49-NQ/TW được ban hành, hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày càng được chú trọng hoàn thiện, cơ bản thể chế hóa kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, phục vụ thiết thực công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước. Thực hiện chủ trương cải cách bộ máy nhà nước, các cơ quan tư pháp đã tham gia tích cực và chủ động vào việc soạn thảo văn bản pháp luật, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật.

Công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực xây dựng pháp luật được mở rộng. Công tác giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản pháp luật có chuyển biến tích cực; công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý được triển khai đồng bộ với nhiều hình thức phong phú, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật trong cán bộ, đảng viên, nhân dân.

Pháp luật hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp đã được hoàn thiện theo các mục tiêu, định hướng của Chiến lược CCTP đến năm 2020 đề ra, như tăng tính hướng thiện, nhân đạo trong chính sách hình sự (Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 theo hướng thể chế hóa chính sách hình sự nhân đạo hơn, bãi bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội phạm, hạn chế áp dụng hình phạt tù, mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền); hình thành các cơ chế, thiết chế pháp lý dân sự – kinh tế, thương mại phù hợp hơn và đáp ứng cơ bản yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.

 

Luật Tố tụng hành chính năm 2010 được xây dựng theo hướng mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính, bảo đảm sự bình đẳng giữa người dân và cơ quan công quyền trước tòa án. Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và Luật Thi hành án hình sự năm 2010 đều hướng tới bảo đảm các bản án, quyết định của tòa án được thi hành nghiêm minh theo các nguyên tắc, trình tự, thủ tục minh bạch, dân chủ, công khai, phù hợp với tính chất của từng loại án, quy định rõ tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thi hành án, cơ quan quản lý thi hành án, thể chế hóa những chủ trương mới trong thi hành án, như thay đổi hình thức thi hành án tử hình, xã hội hóa một số khâu thi hành án dân sự…

Pháp luật tố tụng tư pháp cũng được đổi mới theo hướng kết hợp giữa tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng nhằm tăng tính dân chủ, minh bạch trong hoạt động tư pháp, tạo điều kiện để cá nhân, tổ chức tiếp cận công lý thuận lợi hơn.

Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản 3 Điều 2). Theo đó, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp; Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp; Tòa án nhân dân (TAND) là cơ quan xét xử và thực hiện quyền tư pháp; còn Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

Thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về CCTP, nhiều đạo luật quan trọng đã được ban hành, như: Luật Tổ chức  TAND năm 2014,  Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015

Bên cạnh đó, các đạo luật như: Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012),  Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006,  năm 2017; các đạo luật về công chứng, trọng tài thương mại… đã thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển các nghề luật phù hợp với yêu cầu và trình độ của nền kinh tế thị trường, tạo khuôn khổ pháp lý cho việc thực hiện chủ trương xã hội hóa mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp.

Với tổng số 12.581 luật sư đã được cấp thẻ hành nghề trong cả nước; 2.398 công chứng viên; 6.154 giám định viên tư pháp…2, có thể nói, sự ra đời và hoạt động của các tổ chức luật sư, công chứng, trợ giúp pháp lý, trọng tài và thừa phát lại đã thúc đẩy việc mở rộng mạng lưới và nâng cao chất lượng các dịch vụ pháp luật, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực pháp luật, tư pháp, đồng thời, góp phần hỗ trợ các cơ quan tư pháp tăng cường tính dân chủ, nghiêm minh, công khai và minh bạch trong hoạt động, giảm tải dần công việc, biên chế và chi phí hành chính của các cơ quan nhà nước liên quan, phù hợp với yêu cầu CCTP, cải cách hành chính.

Thứ hai, về cải cách tổ chức các cơ quan tư pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp.

Trong suốt quá trình lịch sử, TAND luôn được xác định là một trong những cơ quan quan trọng nhất của nền tư pháp. Đặc biệt, từ sau khi Hiến pháp năm 2013Luật Tổ chức TAND năm 2014 ra đời thì vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của TAND đã có sự đổi mới rõ rệt. Theo đó, tổ chức của hệ thống TAND từ ba cấp đã được chuyển thành hệ thống TAND bốn cấp để hướng tới tăng thẩm quyền xét xử cho tòa án cấp cơ sở.

Các phân tòa hình sự, dân sự, lao động, kinh tế – thương mại, hành chính, vị thành niên dần được hình thành từ cấp huyện đến cấp TAND tối cao. Viện kiểm sát nhân dân cũng xây dựng mô hình tổ chức theo hướng phù hợp với tổ chức TAND. Tổ chức các cơ quan điều tra bước đầu được sắp xếp lại theo hướng thu gọn đầu mối. Tổ chức và hoạt động của các thiết chế bổ trợ tư pháp (luật sư, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, giám định tư pháp,…) ngày càng hoàn thiện, phát triển cả về số lượng và chất lượng.

Có thể nói, tổ chức và hoạt động của tòa án và các cơ quan, tổ chức tham gia thực hiện quyền tư pháp (điều tra, kiểm sát, thi hành án, luật sư, giám định tư pháp…) đã được cải cách từng bước theo hướng tuân thủ tốt hơn các nguyên tắc phổ biến của nền tư pháp dân chủ trong nhà nước pháp quyền, như nguyên tắc độc lập xét xử; nguyên tắc xét xử công khai…

Đồng thời, bảo đảm các nguyên tắc đặc thù trong từng loại tố tụng tư pháp, như nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; nguyên tắc suy đoán vô tội (trong tố tụng hình sự); nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (trong tố tụng dân sự). Bên cạnh đó, một số thủ tục tố tụng được đổi mới. Nhiều vụ án oan sai được làm sáng tỏ, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Công tác tư pháp đã góp phần xử lý những vụ “đại án” được dư luận bức xúc, tố cáo, phản ánh, củng cố lòng tin của nhân dân và cử tri đối với hệ thống tư pháp…

Thứ ba, về xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp.

Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 2017, đầu năm 2018, chỉ tính riêng số cán bộ cấp địa phương làm việc tại các sở Tư pháp trên cả nước đã là 5.324 người, trong đó có 4.905 công chức, viên chức và 419 cán bộ hợp đồng; 3.245 người làm việc tại các phòng Tư pháp, trong đó có 2.949 công chức, 296 cán bộ hợp đồng, đạt bình quân 4,5 người/phòng Tư pháp; số cán bộ Tư pháp-Hộ tịch là 18.768 người, trong đó có 17.534 công chức và 1.234 cán bộ hợp đồng.

Về trình độ, tại các sở Tư pháp, số cán bộ có trình độ đại học trở lên là 88%, trong đó số cán bộ có trình độ chuyên môn Luật chiếm 73%; tại các phòng Tư pháp, số cán bộ có trình độ đại học trở lên là 95,1%, trong đó số cán bộ có trình độ chuyên môn Luật chiếm 79,9%; đội ngũ công chức Tư pháp – Hộ tịch có trình độ từ trung cấp Luật trở lên là 87,7%3.

Đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp ngày càng có sự trưởng thành về số lượng và chất lượng. Công tác quy hoạch, rà soát, đánh giá, luân chuyển, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức tư pháp được thực hiện đồng bộ, bài bản; kết hợp cải thiện từng bước chế độ, chính sách đãi ngộ với việc xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với các sai phạm của cán bộ, công chức tư pháp.

Việc đào tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị được đẩy mạnh, góp phần tích cực vào quá trình chuẩn hóa từng bước đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chấp hành viên cũng như những người hành nghề luật sư, công chứng cả về trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ. Đặc biệt, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của hệ thống TAND ngày càng được chú trọng, góp phần nâng cao chất lượng xét xử và thực hiện quyền tư pháp từ cấp Trung ương đến địa phương.

Thứ tư, về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.

Thời gian qua, phương thức lãnh đạo của Đảng và công tác giám sát của các cơ quan dân cử đối với hoạt động tư pháp tiếp tục được đổi mới. Đảng tập trung vào hoạch định và lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, giải pháp chính trị nhằm thực hiện các mục tiêu cải cách; lãnh đạo công tác quy hoạch, đào tạo và bố trí, sử dụng cán bộ trong các cơ quan tư pháp, đặc biệt là bố trí các đồng chí cấp ủy có đủ tiêu chuẩn chuyên môn, uy tín và bản lĩnh làm chánh án TAND, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; củng cố các cơ quan tham mưu của Đảng về công tác nội chính; tăng cường công tác giáo dục, quản lý, kiểm tra và xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm tư cách đảng viên.

Hoạt động giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các tổ chức chính trị-xã hội đối với hoạt động tư pháp đi vào thực chất hơn và hiệu quả được nâng cao. Ủy ban Tư pháp của Quốc hội được thành lập từ Quốc hội khóa XII đã thực hiện việc thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh về tổ chức và hoạt động tư pháp bảo đảm theo đúng tinh thần CCTP, tiến hành hoạt động giám sát chuyên đề về thực hiện một số nội dung CCTP.

Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân về báo cáo công tác của các cơ quan tư pháp góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch của hoạt động tư pháp. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, đặc biệt là Hội Luật gia Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam vừa trực tiếp tham gia xây dựng chính sách, pháp luật về tư pháp, vừa thực hiện giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp, góp phần nâng cao hiểu biết và năng lực tiếp cận tư pháp của nhân dân.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong thời gian qua, việc thực hiện một số nhiệm vụ CCTP vẫn chưa theo đúng lộ trình của Chiến lược CCTP. Việc nghiên cứu, xác định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, cơ chế phân bổ ngân sách và việc đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ của các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp còn chậm. Một số cán bộ tư pháp có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp và trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu.

Công tác giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối với hoạt động tư pháp hiệu quả còn thấp. Sự phối hợp giữa cấp ủy, tổ chức đảng các cơ quan tư pháp trung ương với các cấp ủy địa phương và giữa các cấp ủy, tổ chức đảng trong các cơ quan tư pháp với nhau trong việc lãnh đạo thực hiện một số nhiệm vụ CCTP chưa thực sự chặt chẽ. Nhận thức của một số cán bộ, đảng viên về trách nhiệm triển khai thực hiện Chiến lược CCTP chưa thực sự đầy đủ, nhất quán; chưa thể hiện quyết tâm cao trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ cụ thể tại cơ quan, tổ chức…

Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh cải cách tư pháp trong thời gian tới

Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp. Khẩn trương nghiên cứu, triển khai các luật, nghị quyết của Quốc hội mới ban hành; xây dựng, theo dõi đôn đốc và ban hành kịp thời các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, bảo đảm có hiệu lực cùng thời điểm với luật, nghị quyết.

Thực hiện nghiêm túc Đề án đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật. Chú trọng công tác theo dõi thi hành pháp luật gắn với thực hiện tốt công tác kiểm tra, xử lý văn bản, nhất là những văn bản có tác động trực tiếp, rộng rãi đến người dân và doanh nghiệp. Tiếp tục thực hiện hiệu quả Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật giai đoạn 2017-2021.

Bên cạnh đó, quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc chủ trương “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” đã nêu trong Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu.

Rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy của các tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành tạm giữ, tạm giam và cơ quan thi hành án hình sự, dân sự gắn với cải cách thủ tục hành chính. Chú trọng phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính của thủ trưởng cơ quan với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp của các cán bộ được giao thực hiện các hoạt động tư pháp.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội Luật sư, bổ trợ tư pháp. Phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn vững vàng. Xây dựng cơ chế khuyến khích luật sư tham gia trợ giúp pháp lý, góp phần bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với tổ chức, hoạt động của luật sư.

Tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả giám định tư pháp; quy định chặt chẽ trình tự, quy chuẩn và cơ chế bảo đảm tính khoa học, khách quan trong hoạt động giám định. Nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về thừa phát lại.

Tiếp tục nghiên cứu, thực hiện chủ trương xã hội hóa một số hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp đã được nêu rõ trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các tổ chức giám định, công chứng và các hoạt động bổ trợ tư pháp khác.

Ba là, hoàn thành việc xây dựng và triển khai thực hiện Đề án vị trí việc làm của từng cơ quan, đơn vị ngành Tư pháp gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII).

Lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các đề án về phòng, chống tiêu cực trong hoạt động tư pháp. Đổi mới phương thức tổ chức các lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho đội ngũ cán bộ được giao thực hiện các hoạt động tư pháp; chú trọng việc bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề, đáp ứng yêu cầu CCTP và hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp. Tiếp tục quán triệt thực hiện nghiêm túc các chủ trương của Đảng về việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và chế độ công tác của cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy, tổ chức đảng ở Trung ương và địa phương đối với công tác CCTP.

Tăng cường chỉ đạo việc xây dựng các chương trình, kế hoạch; phân công rõ trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp; định kỳ tổ chức kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện. Bên cạnh đó, tăng cường sự giám sát của các cơ quan dân cử và nhân dân đối với cơ quan tư pháp.

Lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giám sát đối với hoạt động của các cơ quan được giao thực hiện nhiệm vụ tư pháp; thường xuyên theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân liên quan đến hoạt động tư pháp.

Tích cực đôn đốc việc thực hiện các nghị quyết, kết luận sau khi tiến hành giám sát; tăng cường tính công khai, minh bạch, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát. Nghiên cứu, đề xuất việc hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc và các tầng lớp nhân dân đối với các hoạt động tư pháp, bảo đảm tính thiết thực, hiệu quả.

Năm là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp. Tiếp tục củng cố, mở rộng hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp theo đường lối đối ngoại của Đảng, quy định của pháp luật. Tổ chức thực hiện tốt các điều ước, thỏa thuận quốc tế đã gia nhập, ký kết; đẩy mạnh việc đàm phán, ký kết hiệp định tương trợ tư pháp.

Tổ chức nghiên cứu, xây dựng và triển khai thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp theo chức năng, nhiệm vụ được giao, trọng tâm là hợp tác trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng cán bộ đáp ứng yêu cầu hội nhập về tư pháp quốc tế và hoạt động phòng, chống tội phạm có yếu tố nước ngoài, khủng bố quốc tế. Đề cao tinh thần cảnh giác phòng, chống âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trong hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp.

Tiếp tục thực hiện chủ trương “ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, công tác xét xử, công tác giám định tư pháp” đã được xác định trong Nghị quyết số 49-NQ/TW. Tăng cường đầu tư ngân sách phục vụ việc ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước thực hiện chương trình số hóa các hồ sơ, tài liệu liên quan đến hoạt động tư pháp, xây dựng hệ thống tư pháp điện tử./.

Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 110.
2, 3. Báo cáo số 01/BC-BTP ngày 02/01/2018 của Bộ Tư pháp tổng kết công tác tư pháp năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2018.
ThS. Ngô Thị Hải Anh
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh