Bàn thêm về thực hiện kiểm soát quyền lực hành pháp ở Việt Nam

(QLNN) – Trong quá trình tổ chức và thực hiện quyền lực hành pháp luôn tiềm ẩn những nguy cơ khác nhau, có thể dẫn tới tác động, ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, xã hội và nhân dân. Chính vì vậy, vấn đề kiểm soát quyền lực hành pháp vừa là một yêu cầu khách quan, vừa là một nhiệm vụ cấp bách trong tổ chức, vận hành nền hành chính ở nước ta hiện nay1.

 

Ảnh: http://mattran.org.vn
Kiểm soát đối với quyền lực hành pháp là một vấn đề phức tạp bởi chính sự phức tạp của việc tổ chức và thực thi quyền lực hành pháp. 
Kiểm soát quyền lực hành pháp là vấn đề đặc biệt quan trọng, cấp bách và lâu dài. Việc tổ chức và thực thi quyền lực hành pháp một cách thực chất, hiệu quả là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa những mục tiêu mà Hiến pháp, pháp luật trao cho cơ quan hành pháp, mang lại lợi ích cho Nhà nước, xã hội và nhân dân.

Tính phức tạp của kiểm soát đối với QLHP, một mặt, do sự kiểm soát việc sử dụng QLHP đã và đang là yêu cầu bắt buộc đối với bất kỳ nhà nước dân chủ và pháp quyền nào; mặt khác, kiểm soát được việc sử dụng QLHP phải không làm mất đi tính mềm dẻo, linh hoạt cần thiết để có thể tiến hành các công việc của chính phủ, của cơ quan hành chính nhà nước các cấp.

Cái khó nhất trong thiết kế một bộ máy hành pháp thể hiện trước hết là phải làm sao để bộ máy đó có khả năng kiểm soát được xã hội, đồng thời buộc bộ máy hành pháp phải tự kiểm soát được hoạt động của chính mình. Vì thế, kiểm soát QLHP, theo nghĩa rộng, chính là việc thiết kế tổ chức và thực thi QLHP sao cho đạt được mục đích chính trị chung và đạt được hiệu quả cao nhất trong quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội.

Cần nhận diện khái niệm kiểm soát QLHP để có quan điểm đúng nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát QLHP, theo đó, kiểm soát QLHP là toàn bộ hoạt động của các chủ thể trong xã hội (trong và ngoài nhà nước) dựa trên các phương thức, trình tự, thủ tục theo quy định của Hiến pháp và pháp luật nhằm thiết lập, duy trì hoặc bãi bỏ những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định của quyền hành pháp; giám sát, kiểm tra, xét xử, thanh tra, nhận xét, đánh giá việc thực thi quyền lực hành pháp theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN); phát hiện, ngăn ngừa, loại bỏ những biểu hiện sai trái của các cơ quan hành pháp, khắc phục sự tha hóa QLHP, đưa QLHP trở về đúng nghĩa là quyền lực của nhân dân; góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân2.

Vấn đề nâng cao hiệu quả kiểm soát QLHP ở Việt Nam hiện nay là vấn đề quan trọng, cấp bách và lâu dài, cần dựa trên những quan điểm có tính khoa học, thực tiễn và toàn diện

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với kiểm soát QLHP; bảo đảm thượng tôn pháp luật và thực hiện mạnh mẽ, quyết liệt việc kiểm soát đối với QLHP của các nhánh quyền lực khác trong bộ máy nhà nước.

Trong hệ thống chính trị ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một bộ phận hợp thành, vừa là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị. Lịch sử của Đảng ta là lịch sử của Đảng cách mạng, gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng ở trong lòng dân, từ nhân dân mà ra và hoạt động không vì mục đích nào khác ngoài phục vụ lợi ích của nhân dân. Đảng ta hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là nhờ được sự ủng hộ của nhân dân, đi đúng đường lối phục vụ nhân dân.

Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đảng ta là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước nói chung, QLHP nói riêng thông qua việc lãnh đạo, kiểm tra các tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đây là hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước ở tầm cao nhất, bao quát nhất và hiệu quả nhất.

Vấn đề phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã được Đảng ta đề cập trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI và được thể chế hóa tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013. Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”3.

Đây là một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của NNPQ XHCN và là một quan điểm cơ bản mà Đảng ta chỉ đạo công cuộc cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước trong thời kỳ đổi mới. Với quan điểm đó, nhận thức lý luận của Đảng và Nhà nước ta về tổ chức quyền lực nhà nước đã có một bước phát triển mới về chất.

Điểm mới của nguyên tắc và quan điểm nói trên chính là sự kế thừa những nhân tố hợp lý về tổ chức quyền lực nhà nước của nhân loại, kinh nghiệm xây dựng nhà nước kiểu mới ở nước ta sau hơn 70 năm. Đảng và Nhà nước đã làm sâu sắc hơn, chính xác hơn, đầy đủ hơn một tư tưởng xuyên suốt từ khi ra đời nhà nước kiểu mới ở nước ta (năm 1945) cho đến nay là: tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Vì thế, có thể nói, sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam chính là một nhận thức lý luận mới nhằm hiện thực hóa ngày càng sâu sắc nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bởi Đảng ta nhận định rõ, tổ chức quyền lực nhà nước mà không có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực thì trên thực tế, nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” mới chỉ là tuyên bố trong Cương lĩnh, trong Hiến pháp mà chưa trở thành hiện thực. Do đó, phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước là để bảo đảm cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân – bản chất của NNPQ XHCN mà Đảng và Nhà nước ta đang xây dựng.

Theo tinh thần đó, mọi hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, kiểm soát đối với QLHP nói riêng đều phải quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng và thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật của Nhà nước.

Hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đổi mới toàn diện và sâu sắc các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội; đồng thời, chúng ta đang nỗ lực xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. NNPQ XHCN luôn đặt pháp luật ở vị trí thượng tôn, đòi hỏi mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân đều phải sống, làm việc theo pháp luật.

Trong quá trình lãnh đạo xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam, việc tổ chức, thực thi quyền lực nhà nước được Đảng xác định theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Tuy nhiên, trên thực tế, do thiếu luật nên trong một số vấn đề đã phải ủy quyền lập pháp cho Chính phủ, các bộ, các ngành ban hành các văn bản pháp quy để điều chỉnh4. Nhà nước ta đã nhanh chóng thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về kiểm soát quyền lực nhà nước thành các quy định trong Hiến pháp và các bộ luật, luật cụ thể.

Vấn đề đặt ra là, các quy định của pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, QLHP nói riêng có được triển khai thực hiện sâu rộng và đạt được hiệu quả cao hay không phụ thuộc phần lớn vào quyết tâm chính trị, sự lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy cũng như sự chỉ đạo, thực hiện của các thiết chế quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương.

Vì vậy, việc bảo đảm kiểm soát đối với QLHP đòi hỏi phải bảo đảm, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, từng cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo, thực hiện mạnh mẽ, quyết liệt của các thiết chế quyền lực nhà nước khác đối với việc kiểm soát QLHP nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả của hoạt động này; đặc biệt là hoạt động giám sát của thiết chế QLNN và hoạt động kiểm tra, thanh tra trong nội bộ hệ thống hành pháp.

Thứ hai, tiếp tục kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những giá trị phổ quát của nhân loại về kiểm soát quyền lực nhà nước, QLHP phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

Trên thực tế, quy định về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 2013 đã tiếp thu một số nội dung cơ bản của lý thuyết phân quyền: quyền lực nhà nước cần được chia ra ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp; sự phân công quyền lực nhà nước trong việc thực hiện 3 quyền và 3 cơ quan này độc lập tương đối với nhau và cần kiểm soát lẫn nhau.

Việc tiếp thu, kế thừa và vận dụng có chọn lọc các nhân tố của lý thuyết phân quyền nói trên có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong tổ chức quyền lực nhà nước. Sự phân định các quyền như vậy là điều kiện cơ bản để nhân dân giao quyền mà không bị lạm quyền, nhân dân kiểm soát và đánh giá được hiệu lực và hiệu quả thực hiện các quyền mà mình đã giao; đồng thời, cũng là để cho các cơ quan tương ứng được giao quyền đề cao trách nhiệm trong việc thực thi quyền lực nhà nước và tự kiểm tra việc thực hiện quyền lực được Nhà nước giao phó, ủy thác cho.

Như vậy, nội dung kiềm chế và chế ước (đối trọng) của lý thuyết phân quyền mặc dù có vai trò như một yếu tố kỹ thuật pháp lý nhằm hạn chế sự thái quá của hành vi lạm dụng quyền lực nhà nước, nhưng nhược điểm của nó là tạo ra sự chống đối ngầm giữa các nhánh quyền lực, nhất là giữa lập pháp và hành pháp bằng các quy định mà Hiến pháp giao cho, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước, đặc biệt là trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa các nhánh quyền lực. Nhấn mạnh nhược điểm này của yếu tố kiềm chế và đối trọng, chúng ta không tiếp thu và vận dụng nó trong tổ chức quyền lực nhà nước hiện nay.

Thứ ba, kiểm soát đối với QLHP phải bảo đảm hướng tới xây dựng nền hành pháp kiến tạo, liêm chính, hành động và phục vụ.

Kiểm soát đối với QLHP không có nghĩa là chỉ tập trung vào việc phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, dứt điểm, đúng pháp luật các hành vi vượt quyền, lấn quyền, lạm quyền của các cơ quan hành pháp, các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức đang làm việc trong các cơ quan hành pháp; mà điều quan trọng hơn là sự kiểm soát đối với QLHP còn phải luôn gắn kết chặt chẽ với yêu cầu xây dựng nền hành pháp kiến tạo, liêm chính, hành động và phục vụ.

Theo nguyên tắc “chống” đi đôi với “xây”, việc kiếm soát QLHP vừa phải bảo đảm ngăn ngừa tình trạng lấn quyền, lạm quyền, đấu tranh kiên quyết với nạn tham nhũng, tiêu cực; vừa phải góp phần tạo dựng nền tảng bảo đảm cho QLHP được thực thi đúng mục đích chung và đạt được hiệu quả cao nhất5.

Chính phủ Việt Nam đã và đang thể hiện quyết tâm chính trị cao độ, hướng tới xây dựng một chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động, vì nhân dân phục vụ6, tạo dựng được cơ chế kiểm soát nội bộ “từ bên trong” đối với QLHP của chính mình, ngăn chặn, đẩy lùi nạn tham nhũng, tiêu cực, qua đó giúp cho kiểm soát “từ bên ngoài”, từ phía các thiết chế QLNN khác và từ phía các thiết chế xã hội cũng trở nên thuận lợi, dễ dàng hơn.

Như vậy, sự kiểm soát đối với QLHP gắn kết chặt chẽ với yêu cầu xây dựng nền hành pháp kiến tạo, liêm chính, hành động và phục vụ, tạo nên “hiệu quả kép” trong kiểm soát đối với QLHP.

Thứ tư, kiểm soát đối với QLHP là hoạt động lâu dài, liên tục, đòi hỏi phải triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, từ việc xây dựng tới tổ chức thực thi thể chế, pháp luật về kiểm soát đối với QLHP7.

Thực hiện kiểm soát đối với QLHP là hết sức khó khăn bởi nó liên quan đến hoạt động của Chính phủ, các bộ, ngành từ trung ương đến địa phương, đồng thời đòi hỏi chủ thể kiểm soát đối với QLHP phải có thẩm quyền, cơ chế, chế tài… đủ mạnh thì mới có thể thực hiện hiệu quả. Năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) nhà nước tham gia hoạt động kiểm soát đối với QLHP cũng còn nhiều hạn chế, bất cập…

Chính vì vậy, việc kiểm soát đối với QLHP ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải triển khai đồng bộ nhiều giải pháp linh hoạt, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam; tập trung vào các nhóm giải pháp: tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về kiểm soát đối với QLHP; đổi mới mô hình mới tổ chức, hoạt động của các thiết chế nhà nước tham gia kiểm soát đối với QLHP; bảo đảm sự tham gia của các thiết chế chính trị – xã hội, nhân dân vào hoạt động kiểm soát đối với QLHP và bảo đảm nguồn lực cho hoạt động kiểm soát đối với QLHP.

Thứ năm, tham gia kiểm soát đối với QLHP phải là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân.

Kiểm soát quyền lực nhà nước trong NNPQ XHCN là một vấn đề then chốt, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tổ chức, vận hành sự hoạt động của bộ máy nói chung, QLHP nói riêng. Vấn đề đặt ra là phải bảo đảm thực hiện nguyên tắc đó trên thực tế; để bảo đảm nhân dân ủy quyền, giao quyền cho các cơ quan quyền lực nhà nước mà không mất quyền, không bị lạm quyền từ phía quyền lực nhà nước, nhất là QLHP – thứ quyền lực có liên quan và tác động, ảnh hưởng nhiều nhất, mạnh nhất tới quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

Để giải quyết vấn đề này, tất yếu trong tổ chức quyền lực nhà nước phải có sự kiểm soát QLHP; cũng là đòi hỏi tất yếu khách quan để thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm cho nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước và ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực nhà nước, trong đó có QLHP. Mặt khác, kiểm soát đối với QLHP trong NNPQ XHCN còn là tất yếu kỹ thuật để việc thực thi QLHP đạt hiệu quả.

Để hiện thực hóa điều này thì không nên và không thể chỉ trông chờ vào sự kiểm soát đối với QLHP từ phía các thiết chế QLNN, mà còn đòi hỏi sự tham gia, vào cuộc mạnh mẽ của Mặt trận Tổ quốc các cấp, các tổ chức chính trị – xã hội, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình…) và từng công dân8. Tham gia kiểm soát đối với QLHP phải là trách nhiệm chung của toàn hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân./.

Chú thích:
1. Nguyễn Thị Kim Ngân. Tăng cường kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị bảo đảm thực hiện tốt quyền lực của nhân dân. hcma.vn, ngày 01/3/2019.
2. Bùi Huy Tùng. Kiểm soát đối với quyền lực hành pháp ở Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sỹ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018, tr. 44.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2016, tr. 171.
4. Đào Trí Úc. Hiến pháp 2013 và các nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Hội thảo “Tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 2013” do Tạp chí Nghiên cứu lập pháp phối hợp với Viện Chính sách công và Pháp luật tổ chức tại Hà Nội, ngày 06/5/2014.
5. Trần Ngọc Đường. Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992. H. NXB Chính trị quốc gia, 2012, tr. 88 – 89.
6. Nguyễn Thị Phượng. Chính phủ liêm chính và kiến tạo từ lý thuyết tới thực tiễn. noichinh.vn, ngày 01/02/2017.
7. Đặng Minh Tuấn. Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước theo Hiến pháp năm 2013. tcnn.vn, ngày 30/11/2016.
8. Vũ Văn Phúc. Quyền lực và kiểm soát quyền lực ở nước ta. dangcongsan.vn, ngày 18/5/2018.
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992). H. NXB Chính trị quốc gia, 2002.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2016.
                                 TS. Bùi Huy Tùng
Học viện Hành chính Quốc gia