Yêu cầu đổi mới quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

(QLNN) – Chủ trương, đường lối về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự sáng tạo của Đảng ta, là sự vận dụng chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam trong điều kiện mới. Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đứng trước những cơ hội, đồng thời cũng đối mặt với không ít thách thức. Để vượt lên những thách thức, biến những cơ hội thành kết quả phát triển, hoạt động quản lý nhà nước cần có những đổi mới, thích ứng, chuyển mình tích cực.

 

Các đại biểu tham quan Trung tâm đổi mới sáng tạo về internet vạn vật tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc (Hà Nội), tháng 4-2019. Ảnh: TTXVN
Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa giai đoạn 2011 – 2019

Quản lý nhà nước hay sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi vì, Nhà nước là chủ thể định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể, Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bằng việc thiết lập thể chế cho phát triển, xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát triển tổng thể các ngành kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng và bảo đảm an sinh xã hội; ban hành cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.

Năng suất lao động của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao trong khu vực ASEAN. Năng suất lao động toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2018 đạt 102 triệu đồng/lao động (tương đương 4.512 USD), tăng 346 USD so với năm 2017. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thể hiện qua chỉ số ICOR (hiệu quả sử dụng vốn đầu tư) đang dần được cải thiện, từ mức 6,42 năm 2016 giảm xuống còn 6,11 năm 2017 và 5,97 năm 2018.

Đến hết năm 2018, Việt Nam có khoảng 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo, tăng gần gấp đôi so với năm 2015. Đến năm 2020, dự kiến Việt Nam sẽ có 1 triệu doanh nghiệp, trong đó có 5.000 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo. Báo cáo về xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2018 cho thấy, Việt Nam tiếp tục cải thiện vị trí, đứng thứ 45/126 quốc gia và nền kinh tế được xếp hạng, tăng 2 bậc so với năm 2017, tăng 14 bậc so với năm 2016.

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Tuy nhiên, bên cạnh đó, hoạt động quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn những bất cập, hạn chế. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã chỉ rõ: “Quản lý nhà nước chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; hiệu lực, hiệu quả chưa cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm”. Điều đó biểu hiện cụ thể như sau:

Thứ nhất, thể chế quản lý nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn cần tiếp tục được hoàn thiện. Nhiều vấn đề mới phát sinh mà hoạt động quản lý nhà nước chưa dự liệu, chưa tạo ra hành lang pháp lý cần thiết để quản lý. Các hạn chế của khung thể chế ở nước ta có thể nhận thấy ở các khía cạnh: Tính cụ thể, tính dự báo trước trong các quy định chính sách còn bất cập; năng lực xây dựng pháp luật của các cơ quan chức năng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của sự phát triển đời sống xã hội, nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật ngày càng cao của xã hội, cũng như nhu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; tính khả thi và hiệu quả của pháp luật còn thấp, tình trạng văn bản được ban hành nhưng không có khả năng áp dụng vào thực tiễn vẫn tồn tại.

Chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật còn hạn chế; nhiều văn bản mới ban hành, thực hiện trong thời gian ngắn, thậm chí chưa có hiệu lực như Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 (trường hợp Điều 60) hay Bộ luật Hình sự năm 2015, phải sửa đổi hay lùi thời điểm có hiệu lực, làm giảm niềm tin của người dân, doanh nghiệp vào tính nghiêm minh, tính pháp chế của pháp luật. Văn bản hướng dẫn chậm được ban hành, làm chậm quá trình triển khai thực hiện quy định mới, chính sách mới. Các vấn đề phát sinh trong quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), những yếu kém của các tập đoàn kinh tế nhà nước… cũng cho thấy những khung thể chế về kinh tế thị trường chưa thực sự đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Thứ hai, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tương đối cao nhưng chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, thực lực hiện có. Hoạt động quản lý nhà nước chưa tạo ra thể chế thực sự đủ sức hấp dẫn để thu hút các nguồn lực đầu tư cho phát triển. Thu ngân sách nhà nước vẫn còn phụ thuộc nhiều vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, các khoản thu từ tài nguyên, các khoản thu đặc thù và các khoản thu phát sinh do yếu tố khách quan dẫn đến một số năm không đạt dự toán. Chính sách thu còn chưa bao quát hết các khoản thu, như thu từ hoạt động thương mại điện tử (bán hàng qua mạng…), quản lý tài nguyên, môi trường, tài sản… Việc huy động nguồn lực từ đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tài sản công chưa đạt hiệu quả cao, chưa đáp ứng được nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế – xã hội; vẫn còn tình trạng thất thu ngân sách nhà nước do gian lận, chuyển giá; nợ đọng thuế còn lớn, làm ảnh hưởng tới tỷ lệ huy động thu ngân sách nhà nước…

Thứ ba, vấn đề phân bổ ngân sách cho phát triển vẫn còn những khó khăn. Trong giai đoạn 2011 – 2018, nguồn lực dành cho đầu tư của khu vực nhà nước mang tính ngắn hạn và còn bị động. Mặc dù, trong những năm gần đây, nguồn lực nhà nước dành cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng nhưng tính bình quân thì giai đoạn 2011 – 2018, tỷ trọng chi đầu tư phát triển chỉ đạt khoảng 20%, có xu hướng giảm so với giai đoạn 2006 – 2010 (28%). Hiệu quả đầu tư công chưa cao và tỷ trọng đầu tư công vào các ngành xã hội như giáo dục, y tế hay ngành nông, lâm, thuỷ sản còn khá thấp và có xu hướng giảm…

Thứ tư, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu theo chiều rộng, trên cơ sở gia tăng các yếu tố đầu vào, như tăng đầu tư vốn và sử dụng nhiều lao động, trong khi việc đổi mới công nghệ, cải tiến sản xuất, quản lý, nâng cao trình độ công nhân (gọi chung là các nhân tố tổng hợp – TFP) còn rất hạn chế, dù đã được cải thiện tích cực qua các năm. Đóng góp của TFP ở Việt Nam hiện nay mới đạt khoảng 40% và vốn vẫn là yếu tố đóng góp xấp xỉ 50% vào số điểm phần trăm tăng trưởng, dẫn tới mô hình tăng trưởng vẫn mang đặc trưng thâm dụng vốn. Trong khi đó, nhiều nước trong khu vực có tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế đạt trên dưới 50%, như Hàn Quốc là 51,5%, Trung Quốc là 52%, Thái Lan là 53%, In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a đều ở mức 49%.

Thứ năm, nội tại của nền kinh tế vẫn còn nhiều “điểm nghẽn” ở tiến trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước; chậm triển khai các dự án, công trình trọng điểm quốc gia; doanh nghiệp có vốn mỏng, “tín dụng đen” vẫn hoành hành; cải thiện môi trường kinh doanh chưa theo kịp với thực tiễn của đời sống kinh tế và vẫn còn rủi ro trong chống chọi với những thách thức từ bên ngoài.

Thứ sáu, nhiều vấn đề của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được luận giải và quản lý có hiệu quả. Các biện pháp xử lý đối với hoạt động chuyển giá của một số doanh nghiệp FDI, việc lợi dụng kẽ hở trong các quy định của luật liên quan đến nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa sản xuất tại Việt Nam (Made in Vietnam)… đang làm tổn hại niềm tin của người dân vào hàng hóa trong nước, ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước.

Về nguyên nhân của hiện trạng nói trên, Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã chỉ rõ: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đủ rõ. Tư duy bao cấp còn ảnh hưởng nặng nề. Năng lực xây dựng và thực thi thể chế còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Việc quán triệt, tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở các cấp, các ngành, nhất là người đứng đầu thiếu quyết liệt, hiệu quả thấp và chưa nghiêm. Vai trò, chức năng, phương thức hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị chậm đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập quốc tế. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên làm giảm hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(1).

Những yêu cầu đặt ra trong quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Trung tâm Sản xuất thiết bị đo điện tử, điện lực miền Trung ứng dụng công nghệ 4.0 sản xuất công tơ điện tử và thiết bị đo xa. Ảnh: TTXVN

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, trong đó có lĩnh vực quản lý nhà nước. Sự thay đổi về đối tượng quản lý, khách thể quản lý, phạm vi quản lý đòi hỏi quản lý nhà nước cần phải thực sự thích ứng, thậm chí đi trước một bước trong các hoạt động. Thể chế quản lý nhà nước cần phải được đổi mới để tạo hành lang pháp lý thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển các sản phẩm số hóa, trí tuệ nhân tạo, quản lý các giao dịch trên môi trường số, quản lý thông minh, quản lý điện tử.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi bộ máy quản lý nhà nước cần phải thực sự tinh gọn, với khả năng đưa ra những quyết định kịp thời trên nền tảng dữ liệu đủ mạnh, được chia sẻ. Nhân sự quản lý nhà nước cũng đối mặt với thách thức về năng lực. Quản lý nhà nước không thể là quá trình quản lý sáng tạo nếu những cán bộ, công chức, chủ thể quản lý không phải là những chủ thể sáng tạo, năng động, có tầm nhìn, biết nhận ra cơ hội và biết lường trước những thách thức để có thể tham gia có hiệu quả vào quá trình quản trị nhà nước.

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm phát sinh những vấn đề mới và làm thay đổi bản chất của nhiều vấn đề cũ, đòi hỏi quản trị nhà nước phải nâng tầm để thực hiện chức năng quản trị. Trong quá trình thực hiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chênh lệch giàu – nghèo gắn với sự chênh lệch về tri thức, sáng tạo. Những người có tri thức, kỹ năng thấp hơn có xu hướng sẽ bị tụt hậu xa hơn, trong khi những người có tri thức, sức sáng tạo sẽ có bứt phá ngày càng mạnh hơn. Quản trị nhà nước phải lường trước được điều này để đưa ra những giải pháp, để những người chưa có đủ tri thức và kỹ năng không bị gạt ra bên lề của quá trình phát triển, tạo ra khả năng thích ứng với những nghề nghiệp mới khi những nghề nghiệp cũ sẽ sớm mất đi.

Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang đứng trước hàng loạt yêu cầu đặt ra, trong đó có những yêu cầu cơ bản sau:

Một là, các cơ quan nhà nước cần tích cực tìm ra “điểm nghẽn” trong tiến trình phát triển thông qua việc lắng nghe các ý kiến từ xã hội, từ cộng đồng doanh nghiệp, từ các diễn đàn trao đổi, từ các tư vấn, gợi ý chính sách… Thể chế cần bảo đảm huy động và quản lý có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, đặc biệt là nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn đầu tư tài chính, nguồn ngân sách nhà nước… Cần có thể chế phân bổ nguồn lực đầu tư cho phát triển thực sự hiệu quả, khắc phục sự đầu tư dàn trải, đầu tư mà cơ sở xác định hiệu quả chưa thực sự rõ ràng. Sự phân bổ nguồn lực cho phát triển cần dựa vào tín hiệu của thị trường. Cần cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, tiếp cận vốn của nông dân, của các nhóm thiểu số trong xã hội.

Hai là, Nhà nước cần có lộ trình giải quyết thực sự chủ động, tích cực đối với các mục tiêu cụ thể. Về thể chế, Nhà nước cần cải thiện môi trường kinh doanh, đa dạng hóa các kênh tương tác trực tiếp giữa người dân và chính quyền, xây dựng một cơ chế mà các chủ thể trong xã hội có thể tham gia một cách hiệu quả, trực tiếp hơn vào quá trình hoạch định chính sách, pháp luật để quá trình hoạch định này gắn với thực tiễn, nhận được sự đồng thuận từ quá trình hoạch định đến quá trình thực thi.

Ba là, Nhà nước cần thiết lập được thể chế thúc đẩy sự sáng tạo, cụ thể là cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, sáng tạo, nuôi dưỡng sự sáng tạo trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Tập trung thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo quốc gia theo hướng xây dựng các cơ chế, chính sách cụ thể, phù hợp để phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, như có cơ chế tài chính thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của doanh nghiệp với tôn chỉ doanh nghiệp là trung tâm; đổi mới cơ chế đầu tư, tài trợ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; có chính sách để phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; kết nối cộng đồng khoa học và công nghệ của người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng trong nước. Xây dựng các cơ chế, chính sách về thuế, tài chính nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho các hoạt động đổi mới công nghệ, nghiên cứu phát triển và đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ thông tin và các công nghệ tiên tiến khác.

Bốn là, Nhà nước cần giải quyết những mâu thuẫn trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là mâu thuẫn giữa phát triển nhanh và bền vững; giữa toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và xu hướng bảo hộ; giữa việc cắt giảm hàng rào thuế quan và việc gia tăng hàng rào phi thuế quan; giữa các hiệp định thương mại song phương và các hiệp định thương mại của một quốc gia với các tổ chức, khu vực…

Năm là, Nhà nước cần bảo đảm sự phát triển đồng bộ của các thị trường, đẩy mạnh thị trường vốn và tiền tệ với hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch; đẩy nhanh tiến trình thẩm định, định giá các doanh nghiệp nhà nước. Xây dựng hành lang pháp lý cho các mô hình kinh tế số, kinh tế chia sẻ, các hình thức thanh toán mới, cho vay ngang hàng, hạn chế tình trạng “tín dụng đen”. Quan tâm hơn tới kiểm soát bội chi ngân sách, nợ nước ngoài của quốc gia; cải cách cơ chế thu, chi ngân sách, kể cả cơ chế phân cấp thu, chi ngân sách của các địa phương, để tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn nữa.

Sáu là, giải quyết có hiệu quả “điểm nghẽn” về kết cấu hạ tầng và chất lượng nguồn nhân lực. Nhu cầu đầu tư kết cấu hạ tầng ở nước ta tăng lên mỗi năm. Đầu tư cho kết cấu hạ tầng góp phần vào tăng trưởng trong trung hạn và dài hạn, vì vậy, Nhà nước cần lập kế hoạch và ưu tiên đầu tư các dự án kết cấu hạ tầng xương sống của quốc gia. Bên cạnh đó, Nhà nước cần xây dựng môi trường pháp lý hiệu quả nhằm thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân. Các hoạt động này bao gồm xây dựng khung pháp lý toàn diện về đối tác công – tư và thúc đẩy sự phát triển của khu vực tài chính trong nước, đồng thời bảo đảm hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước là một nội dung quan trọng trong chương trình về kết cấu hạ tầng. Phát triển kết cấu hạ tầng theo các hình thức đối tác công – tư cần phải được tiếp cận theo hướng là hoạt động nhằm thu hút nguồn lực đầu tư cho phát triển từ xã hội. Trong đó, cần lựa chọn các đối tác có đủ năng lực tài chính, năng lực kỹ thuật, bởi các đối tác thiếu năng lực tài chính có thể ảnh hưởng đến tiến độ triển khai, chất lượng công trình và sự ổn định của thị trường tài chính; nhưng quan trọng hơn cả là những đối tác có dự án dựa trên công nghệ hiện đại, ứng dụng sâu và rộng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học trên nền tảng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo.

Bảy là, Nhà nước cần nâng cao năng lực dự báo về biến động của đời sống kinh tế – xã hội trong khu vực và trên thế giới, có khả năng đưa ra những gợi ý, những định hướng nhằm giảm “sốc” từ những biến động bất lợi của thị trường khu vực và quốc tế. Nhà nước cũng cần là chủ thể cung cấp kịp thời những thông tin về thị trường, những tín hiệu thị trường nhằm định hướng cho hoạt động của các doanh nghiệp bắt kịp với diễn biến thực tế. Quản trị nhà nước cần có tầm tư duy khu vực và toàn cầu, tìm ra giá trị của Việt Nam trong các chuỗi sản xuất, các chuỗi giá trị để thực sự bắt nhịp với dòng chảy phát triển chung của nhân loại.

Tám là, xây dựng chính quyền số, chính quyền thông minh với khả năng chia sẻ các dữ liệu quản lý nhà nước cần được đặt ra và triển khai thực hiện có hiệu quả, tạo ra sự phối hợp liên ngành, liên vùng, khai thác lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi ngành, lĩnh vực, tạo ra sự kết nối cho phát triển. Mỗi bộ, ngành, địa phương cần chủ động cắt giảm thủ tục hành chính, những thủ tục có thể trở thành rào cản cho các hoạt động kinh tế – xã hội, để thủ tục hành chính vừa bảo đảm sự chặt chẽ cần thiết, vừa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, bảo đảm sự linh hoạt, thích ứng nhanh với sự thay đổi và thay thế nhanh công nghệ hiện đại, công nghệ số của doanh nghiệp. Phương thức quản lý nhà nước cần được đổi mới, tương thích với việc ứng dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong mọi mặt của hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế, trong thời đại công nghệ số và trí tuệ nhân tạo./.
——————————
(1) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017, tr. 26 – 27

TS. ĐẶNG XUÂN HOAN
Giám đốc Học viện Hành chính quốc gia
(Theo: tapchicongsan.org.vn)