Hoàn thiện chính sách tài chính thúc đẩy xã hội hoá giáo dục đại học ở Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) – Xã hội hóa là một chủ trương lớn mang tính chiến lược của Đảng và Nhà nước trong quản lý xã hội. Sau hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết số 90/CP ngày 28/8/1997 của Thủ tướng Chính phủ về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, công tác xã hội hóa giáo dục, trong đó có xã hội hóa giáo dục đại học đã đạt được những kết quả quan trọng, bước đầu đã khai thác được tiềm năng và nguồn lực của xã hội đầu tư cho giáo dục đại học, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.

 

VinUni là trường đại học tư thục không vì lợi nhuận trực thuộc Tập đoàn Vingroup, được xây dựng với sứ mệnh trở thành trường Đại học Tinh hoa, nhằm góp phần tạo ra đột phá trong chất lượng giáo dục đại học tại Việt Nam.

Xã hội hoá (XHH) giáo dục đại học (GDĐH) về căn bản là các biện pháp thu hút sự đóng góp các nguồn lực xã hội vào hệ thống GDĐH, một bậc học cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc dân. Việc đẩy mạnh phát triển hệ thống GDĐH nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội có ý nghĩa quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, chăm lo phát triển GDĐH là trách nhiệm của toàn xã hội, từng địa phương, từng doanh nghiệp có trách nhiệm chăm lo GDĐH bảo đảm nguồn nhân lực cho địa phương mình, cho doanh nghiệp mình. Huy động mọi nguồn lực của xã hội để phát triển GDĐH là một nội dung quan trọng của XHH.

Theo tinh thần đó, những lĩnh vực nào nhân dân làm được thì nhà nước tạo điều kiện để nhân dân tham gia. Khuyến khích các cá nhân, tổ chức đầu tư xây dựng các cơ sở GDĐH ngoài công lập thuộc các thành phần kinh tế. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các loại hình cơ sở GDĐH bao gồm: công lập, tư thục, đầu tư nước ngoài và cổ phần hoá.

Nhà nước tạo sân chơi bình đẳng để mọi thành phần kinh tế có cơ hội đóng góp phát triển GDĐH. Khuyến khích liên doanh, liên kết đào tạo với nước ngoài, khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào đào tạo nghề thuộc cá lĩnh vực đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ cao, những ngành nghề đòi hỏi đầu tư lớn và các nghề phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

XHH phải có bước đi thích hợp với từng vùng, miền và phải bảo đảm tính hệ thống (phân luồng, liên thông) trong đào tạo. Ngân sách nhà nước (NSNN) đóng vai trò chủ đạo trong sự nghiệp phát triển GDĐH. XHH GDĐH yêu cầu phải có phần đóng góp của người học cao hơn do đây là đào tạo trình độ bậc cao tạo cho người học cơ hội nghề nghiệp ổn định và chắc chắn.

Các chính sách tài chính đối với việc thúc đẩy xã hội hoá giáo dục đại học

Các chính sách tài chính đối với việc thúc đẩy XHH GDĐH bao gồm: chính sách chi NSNN cho GDĐH, chính sách học phí, cơ chế quản lý tài chính đối với các trường đại học, chính sách ưu đãi về thuế, chính sách tín dụng ưu đãi học sinh – sinh viên, chính sách ưu đãi tín dụng đầu tư…

Thực tế trong thời gian qua, việc thực hiện các chính sách tài chính đối với việc thúc đẩy XHH GDĐH còn nhiều bất cập. Định mức phân bổ ngân sách cho giáo dục và đào tạo chưa gắn chặt với các tiêu chí bảo đảm chất lượng đào tạo (giáo viên, điều kiện về cơ sở vật chất…), chưa làm rõ trách nhiệm chia sẻ chi phí đào tạo giữa Nhà nước và người học ở giáo dục nghề nghiệp và GDĐH, về cơ bản vẫn mang nặng tính bao cấp và bình quân. Phân bổ NSNN chưa gắn với cơ cấu ngành nghề, nhu cầu đào tạo và chưa tạo ra sự công bằng xã hội.

Cơ chế tự chủ tài chính hiện hành chỉ khuyến khích các trường mở rộng qui mô, tăng nguồn thu tài chính mà chưa gắn với việc nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học. Chính sách ưu đãi thuế chậm đi vào thực tiễn, hầu hết các cơ sở GDĐH ngoài công lập đều khó tiếp cận được chính sách ưu đãi về thuế. Các cơ sở GDĐH công lập ít tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Việc vay tín dụng với lãi suất của các ngân hành thương mại là không hiệu quả đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Các nguồn tín dụng nhà nước hiện nay đều khó tiếp cận, do vậy nguồn vốn chủ yếu để tăng cường cơ sở vật chất, tiếp cận với các công nghệ cao hiện nay chủ yếu vẫn chỉ trông chờ vào nguồn kinh phí do NSNN cấp.

Yêu cầu hoàn thiện cơ chế phân bổ chi NSNN cho giáo dục đại học

Ở Việt Nam hiện nay, việc lựa chọn mô hình phân bổ ngân sách “dựa trên đầu vào” trong nhiều năm qua đã không khuyến khích tính hiệu quả. Đó là một trong những biểu hiện bất cập của cơ chế quản lý NSNN đối với GDĐH. Vì vậy, cơ chế phân bổ NSNN cho các trường đại học về lâu dài cần phải được cải tiến về căn bản, trước mắt cần có thay đổi cho phù hợp thực tiễn và có tính khả thi. Có thể lựa chọn các cách thức phân bổ NSNN như sau:

(1) Phân bổ NSNN theo khả năng XHH của ngành nghề đào tạo

Nội dung của giải pháp này là vẫn trên cơ sở phương pháp phân bổ theo đầu vào như hiện nay, trong điều kiện chưa tổ chức kiểm định xếp hạng các trường đại học, nhà nước cơ cấu lại NSNN cấp cho các trường đại học theo hướng không phân bổ NSNN bình quân như hiện nay. Cơ chế cấp ngân sách cần được điều chỉnh theo hướng ưu tiên cho những ngành nghề ít có khả năng XHH nhưng nhà nước sử dụng nhiều.

(2) Phân bổ NSNN dựa trên đầu ra

Việc phân bổ NSNN theo phương pháp này như sau:

(a) Kiểm định các trường đại học và xếp hạng theo các tiêu chí (công tác kiểm định và công bố xếp hạng trường đại học được làm hàng năm):

– Vị trí, vai trò trong hệ thống GDĐH;

– Quy mô, ngành nghề và các trình độ đào tạo;

– Cơ cấu các hoạt động đào tạo và khoa học công nghệ;

– Chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học;

– Kết quả kiểm định chất lượng GDĐH.

(b) Căn cứ kết quả kiểm định, phân tầng các trường thành 3 loại như quy định tại khoản 4 Điều 9 Luật GDĐH:

– Loại 1 là những trường định hướng nghiên cứu, các trường này được ngân sách hỗ trợ lớn về kinh phí để cung cấp nhân lực có trình độ cao cho quốc gia.

– Loại 2 là những trường định hướng ứng dụng, có tỷ trọng giảng dạy cao hơn nghiên cứu nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho các khu vực, vùng miền.

– Loại 3 là những trường định hướng thực hành với trọng tâm là giảng dạy để phục vụ nhu cầu nghề nghiệp của địa phương.

(c) Xác định hệ số phân bổ NSNN:

– Trên cơ sở phân tầng, xếp hạng các trường đại học cần tính toán đưa ra hệ số phân bổ ngân sách chi tiết tương ứng với từng tầng và hạng trường (K1).

– Trên cơ sở khảo sát, đánh giá về khả năng XHH các nhóm ngành đào tạo cần tính toán đưa ra hệ số phân bổ ngân sách chi tiết đối với từng nhóm ngành (K2) thể hiện mức độ ưu tiên.

– Căn cứ vào mức độ khó khăn của khu vực nơi các trường đại học đầu tư và hoạt động cần tính toán đưa ra hệ số phân bổ ngân sách chi tiết đối với từng khu vực (K3) theo thứ tự ưu tên.

Dựa vào hệ số phân bổ ngân sách chi tiết như trên, xác định hệ số phân bổ NSNN cho các trường đại học như sau:

      Hệ số phân bổ NSNN = K1 x K2 x K3

Căn cứ vào khả năng bố trí NSNN, Nhà nước xác định mức chuẩn NSNN chi cho một sinh viên trên cơ sở số liệu điều tra sinh viên tốt nghiệp có việc làm.

Mức phân bổ NSNN = Mức chuẩn chi NSNN/sinh viên x Hệ số phân bổ

(3) Áp dụng phương thức nhà nước đặt hàng đào tạo đối với các ngành khoa học cơ bản

Từ thực trạng cơ chế tài chính GDĐH nói chung và của các ngành khoa học cơ bản nói riêng, cùng với những khó khăn, bất cập mà các ngành đào tạo khoa học cơ bản phải đối mặt cho thấy, đổi mới phân bổ và cấp NSNN cho các chương trình đào tạo ngành khoa học cơ bản theo định hướng nhà nước “đặt hàng” đào tạo là cần thiết và phù hợp với điều kiện của ngành.

Về cơ chế quản lý tài chính đại học công lập

Nghị định 16/2015/NĐ-CP ban hành quy định cơ chế tự chủ đơn vị sự nghiệp công lập thay thế cho Nghị định 43/2006/NĐ-CP và có hiệu lực từ ngày 06/4/2015, tại điểm 2 Điều 9 quy định: “Dịch vụ sự nghiệp công thuộc danh mục thu phí thực hiện theo quy định pháp luật về phí, lệ phí. Đơn vị sự nghiệp công được thu phí theo mức thu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định”.

Về cơ chế thu học phí cho giai đoạn tiếp theo phải được thiết kế trên nguyên tắc mức thu bảo đảm cho cơ sở GDĐH đủ trang trải chi phí đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, bao hàm cả việc thực hiện trách nhiệm đối với xã hội và đối với người học nhưng cũng phải phù hợp với thu nhập của xã hội, đồng thời giảm dần nguồn kinh phí cấp từ NSNN trong kinh phí đào tạo, bổ sung nguồn thu học phí và nguồn thu tự tạo của trường, trên quan điểm đổi mới cơ chế cấp NSNN, kết hợp thực hiện chủ trương XHH. Chi phí đào tạo bao gồm từ 2 nguồn cơ bản: NSNN và học phí. Việc xây dựng phương án chi phí đào tạo theo nhu cầu thực tế dựa trên hai quan điểm:

Một là, chi phí đào tạo phải đáp ứng nhu cầu cơ bản cho hoạt động đào tạo nhằm bảo đảm được chuẩn đầu ra trên cơ sở tính đúng, tính vừa đủ. Ở đây không tính yếu tố lợi nhuận và đầu tư.

Hai là, tính toán chi phí đào tạo phải xét đến khả năng nguồn lực tài chính của NSNN, khả năng đóng góp của người học. Tập trung NSNN cấp cho đầu tư phát triển, hỗ trợ cho sinh viên vay tín dụng ưu đãi để trang trải chi phí học tập, sinh hoạt. Tăng dần sự đóng góp của người học để bảo đảm chi phí đào tạo theo nhu cầu thực tế.

Đổi mới cơ chế quản lý tài chính đại học ngoài công lập

Để mô hình đại học tư thục không vì lợi nhuận phát triển và được nhân rộng, thu hút nguồn lực xã hội thì Nhà nước cần có các nghiên cứu cụ thể hóa bằng văn bản pháp lý các nội dung:

+ Về mặt pháp lý vấn đề đại diện hoặc sở hữu tài sản chung cần được nghiên cứu, minh bạch, rõ ràng các vấn đề này bằng văn bản pháp lý là điều kiện để các trường có thể thu hút được nguồn lực từ hiến tặng, tài trợ của các cựu sinh viên, doanh nghiệp, nhà tài trợ tâm huyết với giáo dục.

+ Nguyên tắc cử đại diện nhà nước như thế nào cho phù hợp với công tác quản trị đại học. Vấn đề này cần thiết phải có các văn bản hướng dẫn.

+ Cần nâng cao mức chia lợi tức hàng năm cho các thành viên góp vốn theo tỷ lệ % vốn góp và không quá 150% lãi suất trái phiếu Chính phủ trong từng thời kỳ.

Về chính sách tín dụng sinh viên

Trong bối cảnh phải nâng mức học phí đào tạo đại học để bảo đảm chất lượng giáo dục, việc hỗ trợ các sinh viên có hoàn cảnh khó khăn và tăng cường nguồn lực cho các gia đình có con em theo học đại học, Chính phủ cần thiết phải thực hiện các điều chỉnh sau:

+ Nâng mức cho vay phù hợp với điều kiện giá cả thị trường

+ Bổ sung đối tượng cho vay đối với gia đình có từ hai học sinh – sinh viên trở lên đang theo học tại các trường, cơ sở đào tạo.

+ Tiếp tục gia hạn nợ thêm đối với những học sinh, sinh viên chưa tìm được việc làm, chưa có khả năng trả nợ trong khi gia đình vẫn thuộc diện hộ nghèo, hộ khó khăn.

 + Về tạo nguồn vốn hỗ trợ ngân hàng chính sách xã hội trong cho vay học sinh, sinh viên, đề xuất Nhà nước xem xét thành lập Quỹ hỗ trợ đào tạo từ doanh nghiệp sử dụng lao động với tư cách là sử dụng sản phẩm của giáo dục. Bởi lẽ, hiện nay các doanh nghiệp đang sử dụng “miễn phí” nguồn lao động đã qua đào tạo từ hệ thống giáo dục. Do đó, doanh nghiệp cần phải có sự chia sẻ với Nhà nước và người học thông qua nghĩa vụ trích nộp cho Quỹ hỗ trợ đào tạo. Mức trích nộp được xác định bằng tỷ lệ phần trăm trên quỹ tiền lương của doanh nghiệp và quỹ này nên giao cho ngân hàng Chính sách xã hội quản lý và cho vay đối với đối tượng thuộc diện được vay vốn chương trình tín dụng sinh viên.

Về chính sách ưu đãi tín dụng đầu tư

Chính phủ ban hành Nghị định số 69/2008/NĐ-CP nhằm khuyến khích các cơ sở thực hiện XHH giáo dục (ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng), tuy nhiên đến nay đại đa số các trường đại học ngoài công lập khó tiếp cận được các ưu đãi bởi không thỏa mãn các điều kiện được quy định tại Quyết định 693/QĐ – TTg.

Qua khảo sát phần lớn các trường đại học đánh giá ưu đãi về tín dụng ở mức thấp. Trong số các trường đại học ngoài công lập đi vay, phần lớn các trường vay vốn tín dụng thương mại bằng hình thức bảo đảm bằng tài sản, rất ít các trường tiếp cận được vốn vay ưu đãi. Khả năng để các trường đại học ngoài công lập hiện nay tiếp cận tín dụng ưu đãi theo quy định hiện hành là rất khó khăn. Tuy nhiên, để khuyến khích và tạo động lực cho các trường đại học phát triển và nhằm giải quyết nhu cầu vốn đầu tư thiếu hụt hiện nay, Chính phủ cần thực hiện ra gói “Tín dụng hỗ trợ đầu tư cho các trường Đại học”.

Quá trình XHH GDĐH đang được tiến hành ở Việt Nam theo một quy luật tất yếu khách quan. Với những thách thức và khó khăn do bối cảnh lịch sử tạo ra nhưng với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, quá trình XHH GDĐH nước ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Thực hiện một số giải pháp cơ bản trên đây sẽ góp phần tích cực trong việc giúp các trường đại học huy động được các nguồn lực tài chính trong xã hội nhằm phát triển hệ thống GDĐH nước ta trong giai đoạn hội nhập hiện nay.

Tài liệu tham khảo:
1. Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục. Giáo dục Việt Nam bước vào thế kỷ XXI – bối cảnh, xu hướng và động lực phát triển. NXB Giáo dục, 1998.
2. Phạm Minh Hạc. Tổng kết 10 năm (1990-2000) xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. H. NXB Chính trị Quốc gia, 2000.
3. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam. Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997 của Chính phủ về phương hướng và chủ trương XHH các hoạt động giáo dục, y tế và văn hoá.
4. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam. Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP của Chính phủ về đẩy mạnh XHH các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao.
5. Thủ tướng chính phủ. Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 về tín dụng đối với HSSV.
6. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam. Nghị định số 69/2008/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích XHH đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường.
7. Bùi Tiến Hanh. Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính nhằm thúc đẩy XHH giáo dục ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Học viện Tài chính, 2007.
8. Vũ Thị Thanh Thủy. Quản lý tài chính tại các trường đại học công lập Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh tế quốc dân, 2012.
9. Mai Hữu Thỉnh. Dịch vụ sự nghiệp công trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2012.

TS. Phạm Thị Thanh Vân
Học viện Hành chính Quốc gia