Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế – từ góc độ quản lý nhà nước  

(Quanlynhanuoc.vn) – Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là một chủ trương không thay đổi trong mọi giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước. Đảng ta trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đã được đề cập trong nhiều nghị quyết quan trọng của Đảng. Để xây dựng được nền kinh tế độc lập, tự chủ, chúng ta cần phải có một hệ thống giải pháp đồng bộ và lâu dài, trong đó công tác quản lý nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng.

 

Phát biểu tại phiên họp thường kỳ của Chính phủ, sáng 4/9/ 2020, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng phải đề cao nội lực, chú ý thị trường nội địa với 100 triệu dân để xây dựng nền kinh tế tự chủ, giảm dần phụ thuộc nước ngoài. (Nguồn:https://plo.vn/thoi-su/).
Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh hội nhập kinh tế qua các thời kỳ

Những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX, trong tình thế đối đầu của hai hệ thống tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội trên thế giới, Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế tự chủ, tự lực cánh sinh là chính; đồng thời, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN). Đến những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, Đảng ta nhận thức ngày càng rõ mối quan hệ giữa tăng cường sức mạnh kinh tế trên cơ sở nội lực và mở rộng quan hệ hợp tác, phá thế bị bao vây, cấm vận, tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Kinh nghiệm rút ra từ những năm tháng đó thực sự là những bài học lớn đối với việc hình thành và từng bước hoàn thiện quan điểm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ (ĐLTC) của Đảng ta.

Ngay từ năm 1996, tại Đại hội VIII (tháng 6/1996), Đảng ta khẳng định: giữ vững ĐLTC đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả…1

Đến Đại hội IX, Đảng ta đã xác định đường lối phát triển kinh tế đất nước là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH HĐH), xây dựng nền kinh tế ĐLTC, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN, phát huy cao độ nội lực; đồng thời, tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững…2

Cùng với HNKTQT, các chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về xây dựng nền kinh tế ĐLTC, về HNKTQT ngày càng rõ hơn. Mối quan hệ giữa hai nội dung này trong đường lối phát triển kinh tế đất nước ngày càng cụ thể. Đại hội IX nhấn mạnh: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách”, “xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”3 và “Trước hết là độc lập tự chủ về đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất – kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh; có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm nền kinh tế đủ sức đứng vững và ứng phó được với các tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các cam kết hội nhập quốc tế”4.

Đại hội X của Đảng đã đặt cao nhiệm vụ: “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, “hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương”; nhấn mạnh yêu cầu: “đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững”5; các hoạt động đối ngoại phải hướng mạnh vào các nhiệm vụ kinh tế – xã hội thiết thực, như mở rộng thị trường, có thêm đối tác, tranh thủ tối đa vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đều nhấn mạnh, đường lối xây dựng nền kinh tế ĐLTC đi đôi với tích cực và chủ động HNKTQT được thực hiện xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đại hội XI cũng chỉ rõ trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020, phương hướng giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế ĐLTC và tích cực, chủ động hội nhập nhằm tạo dựng được sức mạnh dân tộc với tính chất là yếu tố quyết định; tranh thủ được yếu tố ngoại lực và thời đại với vai trò là yếu tố quan trọng.

Triển khai thực hiện đường lối chủ động HNKTQT, ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 07-NQ/TW về HNKTQT. Đây là văn kiện toàn diện nhất và là sự kế thừa, cụ thể hóa và triển khai các đường lối của Đảng; đồng thời, đáp ứng kịp thời những đòi hỏi khách quan của tiến trình HNKTQT của Việt Nam trong giai đoạn mới.

Trong bối cảnh Việt Nam tích cực hội nhập toàn diện và đẩy mạnh tham gia các Hiệp định Thương mại tự do (FTA), ngày 05/11/2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW về thực hiện có hiệu quả tiến trình HNKTQT, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nghị quyết số 06-NQ/TW (khóa XII) nêu rõ mục tiêu thực hiện tiến trình HNKTQT, giữ vững ổn định chính trị – xã hội nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống Nhân dân, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đảng ta luôn khẳng định đẩy mạnh HNKTQT là hết sức quan trọng, cùng với phát huy nội lực để xây dựng nền kinh tế ĐLTC; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đẩy mạnh HNKTQT với bảo đảm ĐLTC nền kinh tế là nhiệm vụ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng; hiệu quả hội nhập phải được xem xét một cách toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, văn hóa,… Vì vậy, Đảng ta xác định rõ nguyên tắc cơ bản và bao trùm trong HNKTQT là: “bảo đảm giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”.

 Những thành tựu và hạn chế

Trong gần 35 năm đổi mới, nhờ ra sức xây dựng nền kinh tế ĐLTC và chủ động tích cực HNKTQT, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam đã được Liên hiệp quốc đưa ra khỏi nhóm nước kém phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình. Việt Nam là một trong số ít nước chuyển đổi thành công từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước mà vẫn giữ được sự ổn định chính trị – xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô.

Chúng ta đã tranh thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung phát triển kinh tế – xã hội. Thị trường không ngừng được mở rộng, nguồn vốn tài trợ và đầu tư vào nước ta không ngừng gia tăng. Nếu đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, chúng ta mới có quan hệ kinh tế – thương mại với gần 30 nước và vùng lãnh thổ, thì đến nay đã có quan hệ kinh tế – thương mại với trên 220 nước và vùng lãnh thổ. Tổng kim ngạch ngoại thương đã lớn hơn rất nhiều so với tổng sản phẩm trong nước. Đã thu hút được hơn 280 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với trên 13 nghìn dự án được cấp phép và đã giải ngân trên 80 tỷ USD.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục giữ đà phát triển với số vốn thực hiện cao nhất trong nhiều năm trở lại đây, cụ thể: năm 2016 đạt 15,8 tỷ USD; năm 2017 đạt 17,5 tỷ USD; năm 2018 đạt 19,1 tỷ USD; năm 2019 đạt 20,4 tỷ USD. Trong số 81 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư trực tiếp được cấp phép mới tại Việt Nam trong năm 2019, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 3.668,8 triệu USD, chiếm 21,9% tổng vốn đăng ký cấp mới; đặc khu hành chính Hồng Kông (Trung Quốc) đạt 2.811,9 triệu USD, chiếm 16,8%; Trung Quốc: 2.373,4 triệu USD, chiếm 14,2%; Xinh-ga-po: 2.100,9 triệu USD, chiếm 12,5%; Nhật Bản: 1.820,7 triệu USD, chiếm 10,9%; Đài Loan: 860,6 triệu USD, chiếm 5,1%; Thái Lan: 562,3 triệu USD, chiếm 3,4%; Xa-moa: 543,1 triệu USD, chiếm 3,2%6.

Tính đến năm 2018, Việt Nam đã tiếp nhận 80 tỷ USD nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi, trở thành một trong những nước tiếp nhận nguồn vốn này nhiều nhất trên thế giới. Trong đó, 7 tỷ USD là viện trợ không hoàn lại, trên 70 tỷ USD là vốn vay với lãi suất dưới 2% và 1,62 tỷ USD vốn vay kém ưu đãi nhưng lãi suất vẫn thấp hơn vốn vay thương mại7.

Hiện Việt Nam có 51 nhà tài trợ lớn, trong đó có 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương. Kết quả này chứng tỏ đường lối đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đạt được thành công đáng ghi nhận.

Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) và đang trong quá trình đàm phán 6 FTA với những đối tác quan trọng hàng đầu của thương mại thế giới gồm: TPP, Hàn Quốc và các nước trong liên minh thuế quan Nga – Be-la-rút – Ca-dắc-xtan và Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực… Trên phương diện đa phương, các cam kết trong WTO gần như đã được thực hiện đầy đủ và đã có thể có đánh giá tương đối toàn diện, chi tiết tác động của các cam kết gia nhập. Trên bình diện khu vực, Việt Nam cũng hội nhập ngày càng sâu với ASEAN, hướng tới hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015. Trong đó, Hiệp định Thương mại tự do giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam (EVFTA) đã được ký kết năm 2020 và được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn ngày 11/6/2020, là một hướng đi sáng cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Cơ hội việc làm và thu nhập cho người lao động tăng lên rõ rệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Dự kiến trong giai đoạn 2011 – 2020, việc làm mới tạo ra tiếp tục tăng bình quân 2,4 – 2,8%/năm (tương đương 1,1 – 1,3 triệu việc làm). Tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm còn 4,78% vào năm 2015 và 4,23% vào năm 20208.

Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới suy thoái, tốc độ tăng trưởng GDP của nhiều quốc gia suy giảm, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tỷ lệ tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2019 tăng 7,02%9. Sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để nước ta phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước đã tạo tiền đề vật chất – tinh thần quyết định cho việc giữ vững, bảo đảm độc lập, tự chủ của đất nước trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta vẫn còn một số hạn chế, tồn tại, đó là:

(1) Trong xây dựng chủ trương, đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch trung và dài hạn để phát triển kinh tế, nhận thức về tính ĐLTC chưa nhất quán, chưa thực sự phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế của đất nước trong điều kiện toàn cầu hóa. Vẫn khá phổ biến trong nhận thức của cán bộ, công chức rằng, ĐLTC về kinh tế là phải phát triển toàn diện các ngành, lĩnh vực kinh tế.

Một nền kinh tế ĐLTC theo cách hiểu thông thường và truyền thống là một nền kinh tế phát triển toàn diện, có khả năng tự thỏa mãn những nhu cầu mọi mặt của đời sống xã hội, của an ninh, quốc phòng và quá trình tái sản xuất; không bị lệ thuộc vào bên ngoài cả từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, để có thể vận hành một cách bình thường và bảo đảm được nền tảng cho việc duy trì an ninh quốc gia. Một nền kinh tế như vậy nhìn chung chỉ tồn tại trong điều kiện các quốc gia có đầy đủ mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên, điều kiện địa lý, khí hậu lý tưởng, quy mô thị trường quốc gia đủ lớn, trình độ phát triển cao về khoa học – công nghệ và không cần phải có quan hệ kinh tế với nhau mà vẫn có thể tự tồn tại, phát triển được.

(2) Sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn yếu so với các nước, kể cả nhiều nước trong khu vực. HNKTQT đã góp phần làm bộc lộ những yếu kém cơ bản của nền kinh tế, nhất là cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng trưởng vẫn chưa được cải thiện về căn bản…

Nhìn chung, Việt Nam vẫn là nước nhập siêu “trường kỳ”, đặc biệt từ Trung Quốc, Việt Nam vẫn chưa chủ động trong xuất khẩu khiến bị “thua” ngay cả ở những mặt hàng có thế mạnh như gạo, cà phê. Trên thực tế, Việt Nam tăng trưởng nhanh nhưng đẳng cấp chưa cải thiện. Năng suất, năng lực cạnh tranh chưa có sự cải thiện rõ rệt, nguồn nhân lực vừa thừa (lao động chưa qua đào tạo, thiếu kỹ năng) vừa thiếu (lao động chất lượng cao), chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Thực tế này là một trở lực đối với mục tiêu độc lập, tự chủ về kinh tế.

(3) Bên cạnh đó, cũng đã xuất hiện các dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô: các khoản nợ công, nợ của Chính phủ có xu hướng gia tăng, đe dọa trực tiếp an ninh tài chính quốc gia; tỷ lệ lạm phát cao hơn tỷ lệ tăng trưởng GDP, cơ cấu kinh tế dịch chuyển chậm; hiệu quả đầu tư thấp; sức cạnh tranh của nền kinh tế không được cải thiện… Những điểm đó cho thấy, nền kinh tế đã có bước phát triển nhanh, nhưng nội lực nền kinh tế quốc gia vẫn còn yếu kém và dễ bị tổn thương trước những biến động bất lợi từ bên ngoài. Một nền kinh tế tăng trưởng nhanh không phải luôn đồng nghĩa với nền kinh tế mạnh, nhất là khi Việt Nam đang ở trong một thế giới hội nhập và cạnh tranh khốc liệt.

Phương hướng và giải pháp chủ yếu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập giai đoạn 2020 – 2030

Từ thành tựu và hạn chế trên, một số định hướng, phương hướng và giải pháp xây dựng nền kinh tế ĐLTC trong bối cảnh HNKTQT, xét từ góc độ QLNN cần tập trung vào một số nội dung sau:

Thứ nhất, hoàn thiện, bổ sung đường lối chung và đường lối, thể chế kinh tế, xây dựng và phát triển đất nước theo nguyên tắc giữ vững ĐLTC.

Các cơ quan QLNN về kinh tế tầm vĩ mô cần xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch trung và dài hạn phát triển kinh tế – xã hội gắn với tăng cường tiềm lực an ninh – quốc phòng của đất nước một cách thực sự khoa học, khả thi. Để đáp ứng yêu cầu này, các cơ quan QLNN tầm vĩ mô cần thực hiện đẩy mạnh CNH HĐH đất nước. Đây là nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng nền kinh tế ĐLTC, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, giúp chúng ta đi tắt, đón đầu, tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước khác.

Trong giai đoạn hiện nay, cần tập trung vào tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển sang tăng trưởng chủ yếu theo chiều sâu. Việc tái cấu trúc, qua đó nâng cao hiệu quả kinh tế sẽ gia tăng sức cạnh tranh, tạo lợi thế trong hội nhập. Tuy nhiên, tái cấu trúc nền kinh tế cần thay đổi: phải xuất phát từ lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của nền kinh tế nước ta; phải tận dụng được lợi thế của “người đi sau” để đi ngay vào ứng dụng công nghệ hiện đại; phải phù hợp với bối cảnh toàn cầu hóa và phân công lao động quốc tế ngày càng sâu và rộng… Từ đó, nước ta cần xác định ngành, lĩnh vực kinh tế chủ đạo trong cơ cấu kinh tế của đất nước. Đó là, tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao, kinh tế biển, công nghệ và công nghiệp thông tin, du lịch. Đây là những ngành, lĩnh vực chúng ta có ưu thế về nguồn lực con người, khí hậu, thổ nhưỡng, vị trí địa lý…

Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô để phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, nòng cốt của kinh tế đất nước, giữ vững các cân đối lớn, bảo đảm an ninh kinh tế, không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia. Chính phủ cần tiếp tục thực hiện các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô và cải thiện môi trường sản xuất, kinh doanh để thu hút đầu tư trong và ngoài nước tham gia sản xuất hàng hóa và dịch vụ, cung cấp cho thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường khu vực và thế giới.

Thứ ba, cùng với chính sách khuyến khích, cần xây dựng hệ thống tổ chức, bộ máy và nhân lực trình độ cao với chức năng mở rộng và tìm kiếm thị trường mới, đa dạng hóa thị trường, nguồn vốn đầu tư và đối tác, tránh phụ thuộc vào một thị trường, một đối tác, tạo nền tảng cho phát triển ổn định, bền vững. Chiến lược thị trường cần gắn kết chặt chẽ với chiến lược sản phẩm và xúc tiến quảng bá sản phẩm nhằm nâng cao vị thế và uy tín của sản phẩm hàng hóa trong nước. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của nền kinh tế thế giới, khu vực; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với cam kết quốc tế.

Thứ tư, Chính phủ, các bộ, ngành và các địa phương đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động HNKTQT với nhiều hình thức, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. HNKTQT cần được thực hiện có lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn; đáp ứng yêu cầu và lợi ích của đất nước trong quá trình phát triển; đồng thời, qua đó phát huy vai trò của nước ta trong quá trình hợp tác với các nước, các tổ chức khu vực và thế giới.

Để chủ động HNKTQT một cách có hiệu quả, cần chú ý tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị kỹ các điều kiện thực hiện các FTA yêu cầu ở cấp độ cao hơn trong hội nhập kinh tế toàn cầu, tham gia các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư… Có đại diện làm việc tại các tổ chức thương mại, đầu tư; hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Huy động mọi nguồn lực để thực hiện thành công ba đột phá chiến lược: cải cách thể chế; phát triển kết cấu hạ tầng; phát triển nguồn nhân lực. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu HNKTQT, đặc biệt là bồi dưỡng cán bộ, công chức am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, hội nhập quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế và đủ năng lực làm việc trong môi trường quốc tế.

Thứ năm, tăng cường năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bằng đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế, hành chính, đặc biệt là tăng cường áp dụng khoa học – công nghệ hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành kinh tế, nhất là những ngành có vị thế của Việt Nam. Quy định chặt chẽ và mạnh dạn trong đổi mới công nghệ. Đi liền với quá trình du nhập công nghệ, cần tăng nguồn tài chính đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, nhằm từng bước nghiên cứu phát triển, tiến tới tự chủ dần về công nghệ.

Thứ sáu, các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội cả nước và các vùng kinh tế trọng điểm cần bảo đảm kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng – an ninh và đối ngoại trong hội nhập quốc tế. Mở rộng quan hệ quốc tế phải quán triệt và thực hiện nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hòa bình. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế, quốc phòng – an ninh và đối ngoại để tạo sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới, thực hiện quan điểm “thêm bạn, bớt thù”, tạo môi trường, điều kiện bảo vệ Tổ quốc “từ xa”.

Chú thích:
1. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV do đồng chí Phạm Văn Đồng trình bày (ngày 16/12/1976). http://www.cpv.org.vn.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. H. NXB Chính trị quốc gia, 1996, tr. 86.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. H. NXB Chính trị quốc gia, 2001, tr. 89, 92, 166.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết của Bộ Chính trị số 07/NQ-TW về hội nhập kinh tế quốc tế. H. NXB Chính trị quốc gia, 2002.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. H. NXB Chính trị quốc gia, 2006, tr. 112.
6, 7, 8, 9. Tổng cục Thống kê. Tình hình kinh tế – xã hội quý IV và năm 2019. https://www.gso.gov.vn, ngày 22/6/2020.
TS. Đặng Xuân Hoan
Học viện Hành chính Quốc gia