Hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong những năm gần đây, xuất hiện khá nhiều hành vi sao chép quyền tác giả mà không được sự cho phép của chủ sở hữu, vì vậy, các cơ quan quản lý nhà nước cần chú trọng trong công tác quản lý, giám sát quyền tác giả và quyền liên quan. Đối với Việt Nam, pháp luật về quyền tác giả có vai trò đặc biệt quan trọng giúp tạo điều kiện cho các hoạt động sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, góp phần bảo tồn, phát triển nền văn hóa dân tộc, hiện đại, nhân văn; tiếp thu tinh hoa văn hóa và tiến bộ về khoa học – công nghệ của nhân loại, tạo điều kiện cho phát triển công nghiệp bản quyền, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội.

 

Ảnh minh họa (nguồn: internet).

1. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề bảo hộ quyền tác giả (QTG) đang trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của các cơ quan quản lý nhà nước. Những năm gần đây, các hành vi sao chép QTG mà không được sự cho phép của chủ sở hữu xuất hiện khá nhiều, vì vậy, các cơ quan quản lý nhà nước cần chú trọng hơn trong công tác quản lý, giám sát QTG, quyền liên quan. Vì QTG là một lĩnh vực mới đối với Việt Nam, do đó nhận thức của các cơ quan quản lý, chỉ đạo các cấp chưa đầy đủ; ý thức chấp hành và hiểu biết của Nhân dân, kể cả các tác giả và tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan còn thấp. Từ đó dẫn đến việc thực thi các quy định của pháp luật về QTG còn nhiều hạn chế, tình trạng vi phạm QTG xảy ra nhiều, có vụ việc nghiêm trọng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu bước đầu đạt được trong lĩnh vực QTG, thực tiễn cũng đang đặt ra những vấn đề cấp bách đòi hỏi phải giải quyết về bảo hộ QTG khi Việt Nam hội nhập vào khu vực và thế giới. Một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến hiệu quả của hoạt động bảo hộ QTG là phải hoàn thiện pháp luật đối với lĩnh vực QTG.

QTG không chỉ là một thuật ngữ pháp lý mà còn là một chế định pháp luật gồm tổng thể các quy phạm pháp luật xác định và bảo hộ quyền nhân thân, quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học – các tác phẩm mang tính nguyên gốc; chống lại sự sao chép trái phép tác phẩm được bảo hộ QTG và các quyền liên quan, bao gồm cả quyền của người biểu diễn đối với các chương trình biểu diễn của họ; quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình đối với các bản ghi của họ; quyền của tổ chức phát thanh, truyền hình đối với các chương trình phát thanh, truyền hình của họ.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”.

Hiểu rộng hơn, QTG bao gồm những quyền cụ thể mà pháp luật trao cho tác giả hay chủ sở hữu của một tác phẩm về việc đặt tên tác phẩm, đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; sao chép, điều chỉnh hay truyền tải, phổ biến tác phẩm đến với công chúng bằng việc cho phép người khác tham gia vào quá trình khai thác tác phẩm. QTG được ghi nhận cho các tác phẩm văn học, văn học dân gian, khoa học, sách giáo khoa, bài giảng, bài phát biểu, tác phẩm báo chí, âm nhạc, sân khấu, nghệ thuật dân gian, điện ảnh, nhiếp ảnh, kiến trúc, tạo hình, tác phẩn mỹ thuật ứng dụng, bản đồ họa, sơ đồ, bản vẽ công trình, chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu… và tác phẩm phái sinh (nếu không gây phương hại đến QTG của tác phẩm gốc).

QTG là một loại tài sản đặc biệt – tài sản vô hình, quyền tác giả có các đặc điểm sau đây: Thứ nhất, QTG thiên về việc bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm. Thứ hai, QTG phát sinh một cách tự động kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, phương tiện, ngôn ngữ. Thứ ba, QTG bị giới hạn về không gian và thời gian. Thứ tư, QTG là tài sản vô hình nên có thể khai thác sử dụng trong cùng một thời gian bởi nhiều chủ thể khác nhau ở nhiều nơi.

2. Nhằm khuyến khích các cá nhân, tổ chức tham gia vào việc sáng tạo và phổ biến các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và văn bản pháp luật bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của những người sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, đồng thời bảo vệ lợi ích của công chúng hưởng thụ.

Trải qua hơn 20 năm, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về QTG, quyền liên quan đã liên tục được hoàn thiện. Từ Bộ luật Dân sự năm 1995, với 36 điều quy định về QTG tại Chương I (phần thứ 6 và phần thứ 7); cho đến Bộ luật Dân sự năm 2005 vẫn là những quy định chung điều chỉnh các quan hệ dân sự trong lĩnh vực QTG. Năm 2015, Luật Sở hữu trí tuệ ra đời với 222 điều, trong đó có 46 điều quy định riêng về QTG, quyền liên quan. Theo đó, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã quy định cụ thể về tác giả, chủ sở hữu QTG, chủ sở hữu quyền liên quan, điều kiện bảo hộ, nội dung quyền, giới hạn quyền và thời hạn bảo hộ, các hành vi bị coi là xâm phạm quyền, chuyển giao quyền, chứng nhận đăng ký quyền, tổ chức đại diện, tư vấn, dịch vụ, các biện pháp tự bảo vệ quyền, xử lý xâm phạm quyền bằng các biện pháp dân sự, hành chính, hình sự…

Bộ Luật Dân sự năm 2005 và Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được đánh giá là bảo đảm đáp ứng được các mục tiêu và đòi hỏi khắt khe của quá trình hội nhập, khắc phục được các bất cập đang tồn tại, làm cho hệ thống quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ của nước ta tiến gần hơn với hệ thống của nhiều nước trên thế giới. Đồng thời, đây là công cụ quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động sáng tạo, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, thu hút đầu tư trong và ngoài nước, phát triển thị trường công nghệ, từ đó nâng cao hiệu lực của pháp luật, hiệu quả quản lý, thực thi, góp phần phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội.

Để hướng dẫn các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Sở hữu trí tuệ về QTG, quyền liên quan, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về QTG và quyền liên quan; Nghị định số 105/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.

Ngày 19/6/2009, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội (khóa XII) đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, với 33 điều sửa đổi, bổ sung. Phần QTG, sửa đổi Điều 26 và Điều 33 về giới hạn QTG, quyền liên quan cho phù hợp với Điều 11 bis Công ước Berne và kéo dài thời hạn bảo hộ tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh từ 50 lên 75 năm cho phù hợp với Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và nguyên tắc đối xử tối huệ quốc của Hiệp định TRIPs. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hội nhập, thể chế hóa Nghị quyết số 71/2006/ NQ-QH11 của Quốc hội (khóa XI) về việc phê chuẩn Nghị định Thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hòa xã hội Việt Nam.

Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan được thay thế bằng Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/02/2018 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 về QTG, quyền liên quan.

Ngày 14/6/2019, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội (khóa XIV) đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ (Luật số 42/2019/QH14). Luật này được Quốc hội thông qua theo trình tự, thủ tục rút gọn nhằm kịp thời nội luật hóa các nghĩa vụ phải thi hành ngay trong Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 14/01/2019. Các nội dung liên quan đến sở hữu trí tuệ trong Luật sửa đổi lần này tập trung vào 5 nhóm vấn đề lớn, bao gồm: (1) Cách thức nộp đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp; (2) Sáng chế; (3) Nhãn hiệu; (4) Chỉ dẫn địa lý; (5) Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Từ đó, đã khắc phục những tồn tại bất cập, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức Việt Nam bình đẳng với công dân và pháp nhân của các quốc gia, nhằm thúc đẩy các hoạt động thực thi tại Việt Nam và hội nhập quốc tế.

Bên cạnh đó, hệ thống các chế tài về hành chính, dân sự và hình sự đã được ban hành, và đổi mới qua từng giai đoạn nhằm bảo đảm cho các quy định pháp luật về quyền tác giả được thi hành với bộ máy cưỡng chế của Nhà nước. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) đã nâng mức hình phạt đối với các hành vi thuộc tội phạm QTG, quyền liên quan, phạt tiền lên tới 1 tỷ đồng và hình phạt tù tới 3 năm. Nghị định số 47/2009/NĐ-CP ngày 13/5/2009 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính về QTG, quyền liên quan được thay thế bằng Nghị định số 131/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/10/2013 quy định về xử phạt hành chính về QTG, quyền liên quan đã cụ thể hóa các hành vi vi phạm và nâng mức phạt từ 250 – 500 triệu đồng, làm căn cứ pháp lý cho các cơ quan chức năng xử lý vi phạm pháp luật về QTG, quyền liên quan. Các mức chế tài được điều chỉnh khá nhiều so với quy định cũ, đủ mức giáo dục và răn đe cho cộng đồng, thể hiện quyết tâm của Nhà nước ta trong việc thực hiện bảo hộ QTG, quyền liên quan.

Như vậy, hầu hết các quan hệ xã hội về QTG, quyền liên quan đã được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật. Về cơ bản, pháp luật hiện hành phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, tạo tiền đề cho sự hội nhập sâu, rộng với cộng đồng quốc tế. Hoạt động lập pháp, lập quy về QTG, quyền liên quan đã có những bước phát triển vượt bậc.

3. Trong thời gian tới, để đẩy mạnh hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về QTG cần tập trung vào một số giải pháp cụ thể sau:

Một là, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn về QTG.

Việc đào tạo này được thực hiện ở phạm vi trong nước và nước ngoài đối với toàn bộ cán bộ trong hệ thống thực thi QTG, từ Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục Bản QTG, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho đến các cơ quan tư pháp từ trung ương tới địa phương.

Trước hết phải đào tạo chuyên sâu về pháp luật, QTG cho đội ngũ cán bộ thông qua các lớp đào tạo chính quy, tại chức, các cuộc tập huấn chuyên môn, các hội thảo khoa học trong nước và quốc tế. Đồng thời, cần đưa vào chương trình đào tạo các kiến thức chuyên ngành Văn hóa – Thông tin vì QTG động chạm đến nhiều lĩnh vực chuyên về văn hóa – thông tin.

Hai là, tuân thủ các điều ước quốc tế đã tham gia và các hiệp định song phương đã ký kết.

Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia các điều ước quốc tế quan trọng cũng như đã ký kết các điều ước quốc tế song phương về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bản QTG nói riêng. Một số điều ước quốc tế đa phương mà Việt Nam đã tham gia là: Công ước Paris năm 1883 về sở hữu công nghiệp, Thỏa ước Madrid năm 1891 về đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, Hiệp định về hợp tác bằng sáng chế năm 1970, Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, Công ước Rome năm 1961 về bảo hộ người biểu diễn, tổ chức ghi âm và tổ chức phát sóng, Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) năm 1995 trong hệ thống các hiệp định của WTO, Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) bắt đầu có hiệu lực từ năm 1970 (Việt Nam trở thành thành viên của WIPO từ ngày 02/7/1976)…

Ba là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đi đôi với xử lý nghiêm các hành vi vi phạm QTG.

Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật QTG nói riêng đóng vai trò quan trọng trong việc trang bị cho công dân những hiểu biết về các quy định pháp luật. Trong khuôn khổ pháp luật về QTG, chủ sở hữu QTG, công tác tuyên truyền phải nhằm vào ba đối tượng chủ yếu đó là tác giả, chủ sở hữu QTG và người sử dụng tác phẩm, làm cho các đối tượng hiểu rõ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Tài liệu tham khảo:
1. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.
2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009.
3. Công ước Berne năm 1886 về Bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học.
4. Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/02/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan.

Đoàn Diệu Linh
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch