Pháp luật và dịch vụ pháp lý về quản lý các vấn đề xã hội tại các khu công nghiệp ở Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) – Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về chính sách, pháp luật nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tạo điều kiện, cơ sở vững chắc cho hoạt động quản lý và tổ chức thực hiện các dịch vụ xã hội trong các khu công nghiệp được thuận lợi. Điều này thể hiện rõ mong muốn của Đảng và Nhà nước: đưa các khu công nghiệp trở thành đầu tàu trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội; nâng cao chất lượng đời sống và ý thức trách nhiệm của người lao động trong khu công nghiệp.

 

Công nhân tại Công ty TNHH May mặc Triple Việt Nam (huyện Củ Chi, TPHCM) (Nguồn: http://www.congdoan.vn).
Nhận diện vấn đề xã hội và quản lý các vấn đề xã hội trong các khu công nghiệp
Từ điển Wikipedia có đưa ra cách hiểu về vấn đề xã hội (hay các vấn đề xã hội) là tất cả những gì liên quan đến con người, các nhóm người, các cộng đồng người đến sự tồn tại, phát triển của con người trong một hoàn cảnh xã hội nhất định, được nhận thức như một vấn nạn của xã hội, đụng chạm đến lợi ích của một cộng đồng. Đó là sản phẩm của con người có ảnh hưởng đến một nhóm người nhất định và chỉ có thể được khắc phục thông qua hành động xã hội.
Theo đó, có thể hiểu các vấn đề xã hội (VĐXH) là những vấn đề phát sinh trong các quan hệ xã hội, có tác động, ảnh hưởng hoặc đe dọa đến sự phát triển của cộng đồng cũng như chất lượng cuộc sống xung quanh đòi hỏi phải có những biện pháp nhằm phòng ngừa, ngăn chặn, khắc phục những tác động tiêu cực và phát huy những yếu tố tích cực nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển bền vững của cộng đồng.
Các VĐXH nảy sinh trong các khu công nghiệp (KCN) khá đa dạng do phát sinh từ nhiều khía cạnh, như: vấn đề về việc làm, thu nhập, hôn nhân gia đình, nhập cư, xuất cư, dân tộc, tôn giáo, đình công, cho tới các hoạt động văn hóa, giải trí, các vấn đề về y tế, giáo dục, nhà ở, tiếp cận thông tin, nước sạch, vệ sinh môi trường, an toàn lao động và môi trường làm việc…
Các VĐXH có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, do vị trí của con người trong xã hội quy định. Tuy nhiên, do địa vị của con người ở mỗi chế độ xã hội khác nhau là không giống nhau, nên vai trò, bản chất của các VĐXH cũng khác nhau. Nhà nước Việt Nam từ khi thành lập cho tới nay luôn tạo ra những khả năng khách quan giảm thiểu tình trạng đói nghèo, mâu thuẫn xã hội và phân chia giàu – nghèo, đã không ngừng cải thiện các điều kiện sống, tạo ra các tiền đề pháp lý, cơ sở vật chất cho sự phát triển của cá nhân, của NLĐ để họ tự giác tham gia có hiệu quả các hoạt động xã hội cũng như xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Quản lý theo từ điển tiếng Việt được hiểu là: “Trông coi và giữ gìn hoặc tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”1. Vì vậy, quản lý là hoạt động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người nhằm duy trì tính ổn định và phát triển của đối tượng quản lý theo những mục tiêu đã định.
Như vậy, quản lý các VĐXH trong các KCN là quá trình tác động một cách có tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý để điều chỉnh các hành vi của con người đối với các VĐXH phát sinh trong các KCN nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, bảo đảm duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Pháp luật về các vấn đề xã hội trong các khu công nghiệp
Để xây dựng và phát triển các KCN ngày càng hiện đại, trong đó đời sống của NLĐ trong các KCN ngày càng được tăng cường, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản để chỉ đạo, hướng dẫn và thực hiện mục tiêu của việc phát triển các KCN. Trong đó, phải kể tới:
Văn kiện Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam; Nghị quyết số 20/NQ-TW ngày 28/01/2008 về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 11/NQ-TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Báo cáo kết quả tổng kết 10 năm tổ chức Công đoàn Việt Nam thực hiện Nghị quyết số 20/NQ-TW…
Theo đó, những nội dung cơ bản liên quan đến quản lý các VĐXH trong các KCN được thể hiện trong ở các nội dung, như: “Quản lý tốt sự phát triển xã hội; nâng cao phúc lợi xã hội; thực hiện tốt chính sách với người có công; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe Nhân dân, chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống của Nhân dân; thực hiện tốt chính sách lao động, việc làm, thu nhập; xây dựng môi trường sống lành mạnh, văn minh, an toàn2; “Khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều việc làm, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý. Điều chỉnh chính sách dạy nghề, gắn đào tạo với sử dụng. Điều chỉnh chính sách xuất khẩu lao động hợp lý. Hoàn thiện và thực hiện chính sách bảo hộ lao động”3; “Xây dựng, hoàn thiện và thực hiện tốt hệ thống luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ”4,…
Nhìn chung, các văn bản của Đảng và Nhà nước đều hướng đến mục tiêu cải thiện cuộc sống và các VĐXH khác cho NLĐ nói riêng và toàn thể nhân dân nói chung. Đặc biệt, nhấn mạnh phát triển công nghiệp đi đôi với nâng cao chất lượng cuộc sống, chính sách an sinh xã hội cho NLĐ trong các KCN.
Hiện thực hóa các chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Chính phủ và các bộ, ban, ngành đã có các văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, như: Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định về KCN, Khu chế xuất (KCX) và Khu kinh tế (KKT) là văn bản pháp lý quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho cơ chế, chính sách, quy hoạch, phát triển và tổ chức thực hiện quản lý nhà nước đối với các KCN, KCX, KKT trên địa bàn cả nước; Nghị định số 164/2013/NĐ-CP ngày 11/12/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 29/2008/NĐ-CP; Nghị định số 114/2015/NĐ-CP ngày 09/11/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Điều 21 Nghị định số 29/2008/NĐ-CP.
Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 quy định về quản lý KCN và KKT, có hiệu lực kể từ ngày 10/7/2018. Theo đó, Nghị định số 82/2018/NĐ-CP đã xác định và điều chỉnh cụ thể những nội dung các VĐXH phát sinh trong KCN, như: hoạt động văn hóa, thể thao, nhà ở, các dịch vụ về y tế, giáo dục, môi trường, việc làm… cho NLĐ nhằm hướng tới mục tiêu: “Giải quyết vấn đề nhà ở, công trình văn hóa, thể thao và các tiện ích xã hội khác bảo đảm cuộc sống của công nhân trong khu công nghiệp, phát triển theo hướng bền vững”5; “Góp phần phân bố dân cư hợp lý tại các địa bàn trọng điểm tập trung nhiều khu công nghiệp, phát triển các khu đô thị mới với hạ tầng kỹ thuật và xã hội đồng bộ”6; ”Hình thành khu vực công nghiệp, đô thị, dịch vụ với môi trường sinh sống, làm việc hiện đại, đầy đủ tiện nghi, tiện ích cho người dân, người lao động; hướng tới phát triển thành các thành phố công nghiệp, đô thị thông minh đạt tiêu chuẩn quốc tế”7;…
Về cơ bản, pháp luật về KCN đã điều chỉnh khá đầy đủ các VĐXH và những dịch vụ phát sinh trong KCN. Tuy nhiên, những vấn đề được đề cập mới chỉ là những vấn đề chung mang tính nguyên tắc mà chưa được xác định cụ thể khi đối chiếu với các quy định của pháp luật chuyên ngành, như: Luật Nhà ở năm 2014; Luật Giáo dục năm 2019; Luật Bảo vệ môi trường năm 2014; Luật Cư trú năm 2006 …
Tuy nhiên, chưa đề cập cụ thể những VĐXH cần được điều chỉnh trong các KCN, như: khía cạnh tôn giáo, các hoạt động xã hội được thực hiện như thế nào, cách thức và phương pháp tiến hành ra sao nhằm cải thiện đời sống tinh thần của NLĐ; nghị định mới nhấn mạnh vấn đề phát triển nhà ở, công trình thể thao, văn hóa cho NLĐ trong các KCN, KKT nhằm bảo đảm phát triển KCN gắn với sự phát triển đồng bộ hạ tầng xã hội, các công trình phúc lợi cho NLĐ ở KCN là chính.
Như vậy, có thể thấy trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về chính sách, pháp luật nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tạo điều kiện, cơ sở vững chắc cho hoạt động quản lý và tổ chức thực hiện các dịch vụ xã hội trong các KCN được thuận lợi hơn, với mong muốn đưa các KCN trở thành đầu tàu trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội; nâng cao đời sống và ý thức trách nhiệm của NLĐ trong KCN, KKT trong sự phát triển chung.
Dịch vụ pháp lý trong việc quản lý các vấn đề xã hội ở Việt Nam
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý thì dịch vụ pháp lý (DVPL) là: “Loại hình dịch vụ do tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện, nhằm đáp ứng nhu cầu được biết, được tư vấn hoặc được giúp đỡ về mặt pháp lý của các tổ chức cá nhân trong xã hội”8.
Như vậy, có thể hiểu DVPL là ngành nghề cung cấp về các DVPL, pháp luật, nhằm cung cấp các giải pháp về vấn đề pháp lý liên quan và phát sinh từ các hoạt động của đời sống cá nhân, tổ chức trong xã hội.
DVPL trong các KCN, KKT là những dịch vụ do tổ chức, cá nhân thực hiện trên cơ sở Nhà nước cấp phép đăng ký hành nghề nhằm đáp ứng nhu cầu được biết, được tư vấn hoặc được giúp đỡ về mặt pháp lý liên quan đến các VĐXH trong đời sống của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong KCN.
Về cơ bản, DVPL được thể hiện qua 4 khía cạnh nói chung cũng như trong đời sống NLĐ trong các KCN, đó là:
Một là, DVPL trong lĩnh vực kinh doanh, như: soạn thảo hợp đồng, công chứng, chứng thực và tư vấn cho các hoạt động giao, cho thuê đất, hạ tầng kinh tế – kỹ thuật, hoạt động trao đổi mua bán, thương mại, sản xuất kinh doanh của chủ thể kinh doanh trong các KCN, KKT.
Hai là, DVPL đối với các nhu cầu dân sự, gồm: tư vấn về hôn nhân và gia đình, tư vấn và soạn thảo hợp đồng giao dịch dân sự về tài sản (nhà ở, đất ở, đất); tư vấn, soạn thảo, công chứng, chứng thực các giao dịch hợp đồng dân sự về thuê mướn đất đai hạ tầng trong KCN, KKT…; về giải quyết tranh chấp dân sự.
Ba là, DVPL về quản lý trật tự hành chính trong các KCN, như: dịch vụ tư vấn và thực hiện các thủ tục hành chính của chính quyền và công dân trong thực hiện các quyền về kinh tế, chính trị, về dân sự và văn hóa- xã hội (thủ tục cấp phép, thủ tục đăng ký nhà ở trong KCN, thủ tục xác nhận tình trạng hôn nhân cho công nhân, thủ tục khai sinh khai tử…).
Bốn là, DVPL nhằm giải quyết các vấn đề tranh chấp về dân sự, hành chính, kinh doanh: tư vấn và soạn thảo đơn thư khiếu nại, khiếu kiện, khởi kiện, đại diện cho người bị hại trước tòa (luật sư, người làm chứng, người tư vấn).
Qua các đề tài nghiên cứu, khảo sát, báo cáo của các ban quản lý KCN, KKT, KCX, đơn vị trực thuộc Tổng Liên đoàn về đời sống, việc làm của NLĐ cho thấy, thực trạng tổ chức thực hiện DVPL đáp ứng yêu cầu về đời sống xã hội của NLĐ trong các KCN hiện nay như sau:
Thứ nhất, về việc làm, thu nhập và các dịch vụ về hôn nhân gia đình.
Hiện nay, theo thống kê, nhiều ngành nghề trong các doanh nghiệp (DN) ở KCN như dệt – may, chế biến lương thực – thực phẩm, lắp ráp linh kiện điện tử… thường có xu hướng sử dụng lao động giản đơn, tay nghề thấp, chưa qua đào tạo. Đây là cơ hội cho NLĐ, đặc biệt là lao động di cư từ các vùng nông thôn tới để tìm kiếm việc làm. Vì vậy, những dịch vụ đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho NLĐ chưa xuất hiện do các DN trong các KCN thường đầu tư công nghệ trung bình nên không đòi hỏi tay nghề cao, không có sự phân biệt lớn về kỹ năng giữa công nhân lâu năm và công nhân mới vào nghề. Vì vậy, tiền lương của NLĐ trong các DN còn ở mức thấp, mức lương tối thiểu chưa đáp ứng được mức sống tối thiểu của NLĐ.
Thứ hai, về điều kiện lao động, về chế độ, chính sách đối với NLĐ.
Để bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ, cải thiện điều kiện và môi trường làm việc cho NLĐ đã được các Ban Quản lý các KCN quan tâm xây dựng và hoàn thiện nhiều hệ thống an toàn vệ sinh, phòng chống cháy nổ trong các KCN cho thấy ý thức của người sử dụng lao động và NLĐ trong thực thi các quy định về an toàn vệ sinh lao động được nâng lên, giảm thiểu tối đa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Tuy nhiên, do các chính sách về điều kiện lao động, chế độ làm việc áp dụng khác nhau tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi địa phương, mỗi KCN, KKT trong khi chưa có những cơ sở đào tạo ngành nghề cơ bản trong các KCN, các tổ chức y tế tư nhân chưa được cấp phép hành nghề cùng với các tổ chức vận động, công đoàn chưa thực hiện tốt công tác tuyên truyền về những hậu quả đối với việc bảo hộ vệ sinh, môi trường an toàn trong lao động, nhất là trong các khu vực lao động nặng nhọc, nên NLĐ còn gặp nhiều khó khăn trong việc tham gia lao động, như: tình trạng nợ lương, nợ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… kéo dài gây ảnh hưởng đến việc chi trả các chế độ ốm đau, thai sản cho công nhân cùng với việc tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho NLĐ thực sự chưa có chất lượng, thực hiện chưa nghiêm túc; có những DN chưa nhận thức rõ trách nhiệm của mình, chưa quan tâm chăm lo đến đời sống của công nhân lao động, như: hỗ trợ chi phí cho việc gửi trẻ, mẫu giáo đến trường…
Điều này, cho thấy tính hiệu quả, tính thiết thực, tính bền vững của chính sách việc làm của Nhà nước. Vì vậy, những vấn đề này cần được tiếp tục quan tâm và mở rộng bằng việc cho các hoạt động DVPL tương ứng thành lập nhằm đáp ứng các yêu cầu của NLĐ.
Thứ ba, về dịch vụ nhà ở, các công trình văn hóa, thể thao dành cho NLĐ.
Hiện nay, Nhà nước ban hành nhiều chính sách, pháp luật nhằm thu hút nguồn vốn xã hội hóa đầu tư nhà ở cho công nhân, người có thu nhập thấp. Tuy nhiên, các chính sách về dịch vụ nhà ở; cơ sở hạ tầng kinh tế – kỹ thuật; vui chơi, giải trí… cho NLĐ trong các KCN, KKT đến nay vẫn chưa được thực hiện và chưa thực sự trở thành một xu hướng được quan tâm chung nên những vấn đề này còn hết sức khó khăn. Do thu nhập thấp nên đa số NLĐ thuê nhà giá rẻ, hoặc thuê chung, ở ghép, chất lượng nhà cho thuê kém, vệ sinh môi trường, điện, nước không bảo đảm an toàn; điều kiện nghỉ ngơi không đáp ứng để tái tạo sức lao động trong khi các quy định thuê nhà chặt chẽ về đi lại, giao thông không phù hợp làm cho tình trạng không thu hút NLĐ đến sinh sống ngày càng giảm.
Ngoài ra, các DN chỉ chú trọng tập trung cho sản xuất, rất ít quan tâm đến nhu cầu sinh hoạt, giải trí cho NLĐ, việc cải thiện điều kiện làm việc, chăm sóc sức khoẻ và tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí cho công nhân chưa được khuyến khích đầu tư. Nhiều KCN gần không có khu vui chơi giải trí, hoặc nếu có thì chủ yếu phục vụ cho đối tượng có thu nhập cao khiến cho NLĐ có thu nhập thấp không thể trả phí cho các dịch vụ giải trí này.
Thứ tư, về giáo dục, hôn nhân gia đình trong các KCN
Theo các báo cáo, tại các KCN nhu cầu về dịch vụ chăm sóc, giáo dục cho trẻ em các cấp học từ mầm non trở lên đều gia tăng. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà trẻ, nhà mẫu giáo dành cho con công nhân còn nhiều bất cập. Hầu hết các KCN hiện nay chưa có quy hoạch về xây dựng nhà ở, nhà trẻ mẫu giáo, hạ tầng và các thiết chế văn hóa, xã hội phục vụ NLĐ. Trong khi mức thu học phí cao, lương công nhân thấp, không đủ chi trả học phí cho con ngoài các trường công lập. Điều này, đã làm cho các gia đình trong các KCN gặp nhiều rủi ro khi quyết định cho trẻ tới trường; gây tâm lý bất an cho phụ huynh.
Về dịch vụ hỗ trợ xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, tiến bộ trong các KCN hiện tại cũng đang được quan tâm giữa các tổ chức, như: công đoàn, lãnh đạo DN và ban quản lý KCN, KKT, như: thường xuyên tổ chức khám sức khỏe, tình trạng sinh sản cho NLĐ nữ; quy định về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc; tổ chức các diễn đàn, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình; tổ chức đám cưới tập thể; hỗ trợ vay vốn phát triển kinh tế gia đình; chăm lo cho gia đình công nhân ngày lễ, Tết; tổ chức trại hè, biểu dương, khen thưởng cho con công nhân lao động… Tuy nhiên, thực tiễn các hoạt động này còn rời rạc, không thường xuyên nên vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của NLĐ
Theo tìm hiểu và nghiên cứu thì hiện nay, trong tất cả các KCN, KKT đều chưa có văn bản pháp luật nào cho phép thành lập các tổ chức hành nghề cung cấp các loại DVPL liên quan đến các VĐXH phát sinh trong các KCN nêu trên. Bởi bản chất, các tổ chức hoạt động trong các KCN đều là các DN sản xuất – kinh doanh theo Luật DN, trong khi việc hình thành các tổ chức chuyên cung cấp DVPL trong các KCN có vẻ như đi trái lại với các DN hoạt động trong KCN và mục đích hình thành các KCN. Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 đã chỉ rõ Ban quản lý KCN là đơn vị quản lý chung tại KCN có chức năng cung ứng dịch vụ hành chính công và dịch vụ hỗ trợ pháp luật có liên quan đến hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh cho nhà đầu tư trong KCN, KKT. Tuy là đơn vị quản lý chung nhưng Ban quản lý KCN lại mang chức năng quản lý hành chính; đối tượng quản lý là các DN trong các KCN, KKT chứ chưa hướng đến đối tượng trực tiếp là NLĐ và các VĐXH phát sinh trong KCN.
Vì thế, trong các KCN thực chất chưa tồn tại một tổ chức cung cấp DVPL, hỗ trợ NLĐ giải đáp những khúc mắc về mặt pháp luật liên quan trực tiếp đến các VĐXH phát sinh trong KCN, KKT một cách đúng nghĩa. NLĐ thắc mắc và bảo vệ lợi ích của mình thông qua Công đoàn của DN và Công đoàn của KCN, KKT, nhưng những tổ chức này lại không phải là những tổ chức cung cấp DVPL do không có mục đích thu phí của NLĐ từ việc giải đáp các thắc mắc liên quan đến các VĐXH phát sinh trong KCN. Hơn nữa, phạm vi hoạt động của công đoàn cũng chỉ xoay quanh vấn đề lao động, tiền lương, chăm sóc sức khỏe của NLĐ, chưa bao hàm phạm vi giáo dục, hôn nhân gia đình, văn hóa, hay tôn giáo,… của NLĐ.
Nhìn chung, hoạt động cung cấp DVPL trong các KCN, KKT trong tương lai gần cần được Nhà nước quan tâm và quy định cụ thể để hình thành nên các trung tâm tư vấn, cung ứng DVPL về các VĐXH thiết yếu cho NLĐ khi Nhà nước không thể bảo đảm hoặc bảo đảm không thường xuyên, không hiệu quả và cũng nhằm bảo đảm cho hệ thống pháp luật và thực hiện pháp luật nói chung, pháp luật về những VĐXH nói riêng đối với NLĐ trong các KCN đồng bộ hoàn chỉnh và thống nhất.
Chú thích:
1. Hoàng Phê. Từ điển Tiếng Việt. NXB Đà Nẵng, 2003, tr. 800.
2, 3. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
4. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
5, 6, 7. Khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 36 Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế.
8. Bộ Tư pháp – Viện Khoa học Pháp lý. Từ điển Luật học. H. NXB Tư pháp, 2006, tr. 218.
PGS. TS. Nguyễn Thị Phượng
Học viện Hành chính Quốc gia