Hoàn thiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Phụ nữ là lực lượng xã hội quan trọng có ảnh hưởng toàn diện đến sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy, việc làm rõ, bổ sung và hoàn thiện các chính sách, pháp luật, đẩy mạnh việc thực hiện bình đẳng giới đối với nữ giới trong công tác xã hội là rất quan trọngcần ưu tiên, đặt lên hàng đầu.
Thúc đẩy BĐG được coi là nhiệm vụ trọng tâm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và ngày càng được triển khai mạnh mẽ, hiệu quả. Ảnh: http://hoilhpn.org.vn.

Bình đẳng giới (BĐG) và việc thực hiện chính sách, pháp luật (CSPL) về BĐG đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm ngay từ ngày đầu mới giành được độc lập. Trong bản Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) đã khẳng định rõ “nam nữ bình quyền” và cho đến nay luôn là nhiệm vụ quan trọng để chăm lo và phát triển nguồn lực con người (hướng đến cả nam giới và nữ giới) trở thành một nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công trong BĐG ở nước ta thời gian qua, vẫn còn tồn tại những định kiến giới, gây nên sự bất bình đẳng về giới, làm cho người phụ nữ vẫn trở thành nhóm yếu thế trong xã hội. Chính vì vậy, để làm rõ, bổ sung và hoàn thiện các CSPL về BĐG, đồng thời, đẩy mạnh việc thực hiện BĐG đối với nữ giới trong công tác xã hội là rất quan trọng, cần ưu tiên, đặt lên hàng đầu.

Thực trạng về bình đẳng giới và việc thực hiện chính sách, pháp luật bình đẳng giới ở nước ta

Việt Nam là một trong số các quốc gia có khung pháp luật và chính sách khá toàn diện để thúc đẩy BĐG trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Nguyên tắc phổ quát về bình đẳng nam – nữ trong Hiến pháp được cụ thể hóa trong nhiều văn bản luật pháp và chính sách trên mọi lĩnh vực, thể hiện rõ quan điểm, chủ trương của Đảng và CSPL của Nhà nước cũng như những nỗ lực của Việt Nam trong việc thực hiện cam kết của quốc gia thành viên đối với các công ước và luật pháp quốc tế về BĐG, như Công ước của Liên hiệp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Cương lĩnh và Tuyên bố Hành động Bắc Kinh, Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) và Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs).

Thúc đẩy BĐG được coi là nhiệm vụ trọng tâm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và ngày càng được triển khai mạnh mẽ, hiệu quả. Nhiều chính sách, văn bản pháp luật về BĐG, như: Kế hoạch hành động Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000 (Quyết định số 822/QĐ-TTg ngày 04/10/1997 của Thủ tướng Chính phủ); Quyết định số 19/2002/QĐ-TTg ngày 21/01/2002 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010. Tiếp đó, là các nghị định, thông tư cụ thể nhằm thể chế hóa, hướng dẫn Luật BĐG năm 2006.

Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2011 – 2020 (Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ) đã đưa ra các mục tiêu cơ bản nhằm bảo đảm BĐG rõ hơn về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước, gồm: (1) Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị; (2) Giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; (3) Tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động; (4) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham gia bình đẳng nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; (5) Bảo đảm BĐG trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe; (6) Bảo đảm BĐG trong lĩnh vực văn hóa và thông tin; (7) Bảo đảm BĐG trong đời sống gia đình, từng bước xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới; (8) Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng;…

Trong quá trình triển khai nhiệm vụ thực hiện Luật BĐG tại các địa phương trên cả nước, các cơ quan, bộ, ngành trung ương và địa phương đã phối hợp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, triển khai thực hiện tốt công tác BĐG. Sau khi Luật BĐG được ban hành, chủ động tuyên truyền đến toàn thể cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời, chú trọng tới công tác phổ biến giáo dục pháp luật, phổ biến Luật Hôn nhân và gia đình.

Việc lồng ghép vấn đề BĐG trong quá trình xây dựng chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội tạo tiền đề để thực thi BĐG ngày càng hiệu quả hơn, nhất là các chính sách liên quan đến vấn đề BĐG cho người dân về vai trò, vị trí của nam và nữ đều được bình đẳng như nhau. Kết quả thực hiện các chính sách này đã tác động rất lớn đến đời sống kinh tế hộ gia đình và góp phần tích cực trong việc thực hiện quyền bình đẳng trong hộ gia đình.

Các cơ quan, tổ chức chính trị – xã hội, như: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các cơ quan, chính quyền địa phương cũng đã triển khai mạnh mẽ vấn đề BĐG, trong đó chú trọng việc nâng cao nhận thức về thực hiện BĐG; xây dựng các sản phẩm truyền thông phù hợp để tuyên truyền, phổ biến về BĐG; tổ chức các hoạt động học tập kinh nghiệm, hội nghị, hội thảo, tọa đàm rút kinh nghiệm triển khai và nhân rộng mô hình.

Tuy nhiên, thời gian qua, bên cạnh những thành công trong triển khai thực hiện CSPL về BĐG, chúng ta vẫn gặp nhiều trở ngại, khó khăn khi chịu ảnh hưởng của những tác động tiêu cực từ hai cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế khu vực và toàn cầu vào năm 1997, năm 2007 và đại dịch Covid-19 hiện nay đã làm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đồng đều giữa các khu vực làm gia tăng khoảng cách trong đời sống vật chất và tinh thần của người dân giữa vùng thành thị và nông thôn, vùng đồng bằng với vùng núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo có xu hướng gia tăng, làm cho việc thực hiện mục tiêu BĐG ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa gặp khó khăn1.

Mặc dù những năm qua, cơ hội về việc làm, thu nhập và dịch chuyển xã hội cho nữ giới và nam giới đã có nhiều chuyển biến tích cực, song trên thực tế, lực lượng lao động nữ lại chỉ tập trung nhiều ở khu vực phi chính thức và những công việc trả lương thấp, do đó, thu nhập bình quân của phụ nữ vẫn thấp hơn so với nam giới. Một trong những nguyên nhân cơ bản của bất BĐG này là vai trò kép của phụ nữ vừa tham gia công tác xã hội, vừa phải dành thời gian chăm sóc con cái và gia đình đã gắn chặt trong nhận thức của xã hội và của chính người phụ nữ về “thiên chức làm mẹ”, làm cho nhiều phụ nữ mất cơ hội trong học tập, sự nghiệp, tham gia các hoạt động xã và lãnh đạo, quản lý. Là người chăm sóc gia đình, phụ nữ thường có xu hướng từ bỏ những cơ hội để đảm nhận vai trò lãnh đạo mà chấp nhận trách nhiệm chăm sóc và hỗ trợ cho chồng, con và các thành viên gia đình ở cả hai bên2.

Theo báo cáo Khoảng cách giới toàn cầu (WEF 2020) trong 10 năm từ 2011 – 2020 cho biết, chỉ số BĐG của Việt Nam (được xếp hạng theo 4 lĩnh vực: chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế) không ổn định và có xu hướng đi xuống, từ xếp thứ 79/135 nước (năm 2011) đến 83/145 (năm 2015) và 87/153 (năm 2020). Tình trạng bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội vẫn còn khá phổ biến. Điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 cho thấy, cứ 3 phụ nữ thì có gần 2 người đã từng bị chồng/bạn tình bạo hành thể xác, tình dục, tinh thần hay kinh tế hoặc bị kiểm soát ít nhất một lần trong đời. Cứ 3 phụ nữ thì gần 1 người hiện đang bị bạo hành (trong 12 tháng qua)3.

Mất cân bằng giới tính khi sinh cũng là một thách thức lớn về BĐG hiện nay. Mặc dù năm 2019, tỷ số giới tính khi sinh đã giảm xuống 111,5 bé trai được sinh ra trên 100 bé gái nhưng tỷ số này vẫn là rất cao. Thực hành giới có hại thông qua lựa chọn giới tính thai nhi khiến tỷ số giới tính khi sinh tăng là một trong những lý do khiến Việt Nam tụt hạng trong xếp hạng về khoảng cách giới. Năm 2020, Việt Nam xếp thứ 87/153, với tổng số điểm là 0,7 tụt xuống 10 bậc so với năm 2018 và 15 bậc so với năm 2010 cho dù điểm số có tăng lên nhưng không đáng kể4.

Công tác theo dõi – giám sát – đánh giá và công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về BĐG trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm còn nhiều hạn chế. Thực tế hiện nay chưa có các chính sách thu hút giáo viên tiểu học và mầm non dành cho nam giới, hỗ trợ học bổng cho trẻ em gái. Chính sách hỗ trợ cán bộ, công chức, viên chức nữ khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới 36 tháng tuổi mới được quy định chung tại Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Hầu hết chính sách giáo dục và đào tạo nghề nghiệp không trực tiếp đề cập đến nữ hay nam, song vẫn có những quy định bất BĐG đang tồn tại trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.

Chiến lược giai đoạn 2011 – 2020 chưa đề cập đến vấn đề giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Mặc dù ở Điều 15 Luật BĐG quy định BĐG trong việc tiếp cận và ứng dụng khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có hướng dẫn để thực hiện các quy định về BĐG trong lĩnh vực khoa học và công nghệ5.

Trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cụ thể là trình độ tiến sỹ, khoảng cách giới còn khá lớn. Nguyên nhân chủ yếu là do những rào cản liên quan đến hôn nhân, sinh con và trách nhiệm chăm sóc gia đình của phụ nữ. Việc bảo đảm BĐG trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe còn thấp… Theo Báo cáo số 474/BC-CP ngày 06/10/2020 của Chính phủ về thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2019 và giai đoạn 2011 -2020 thì chỉ có 14 chỉ tiêu đạt mục tiêu đề ra; 7/22 chỉ tiêu chưa đạt và 1 chỉ tiêu chưa có đủ cơ sở để đánh giá đạt kết quả (trong khi đó Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2011 – 2020 đề ra 22 chỉ tiêu cụ thể). Số liệu năm 2019 do Bộ Nội vụ cung cấp cho thấy, tỷ lệ cơ quan nhà nước có từ 30% nữ trở lên có cán bộ chủ chốt là nữ là: 53% (bộ/ngành), 45,52% (cấp tỉnh); 53,74% (cấp huyện) và 35,64% (cấp xã). Riêng đối với các cơ quan Đảng, tổ chức chính trị – xã hội có từ 30% nữ trở lên có lãnh đạo chủ chốt là nữ chưa đánh giá được do chưa thu thập được số liệu6.

Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam

Thứ nhất, cần tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2021–2030, trong đó nhấn mạnh mục tiêu tổng quát: “Tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước” và thực hiện 6 mục tiêu cụ thể: Mục tiêu 1: Trong lĩnh vực chính trị; Mục tiêu 2: Trong lĩnh vực kinh tế, lao động; Mục tiêu 3: Trong đời sống gia đình và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới; Mục tiêu 4: Trong lĩnh vực y tế; Mục tiêu 5: Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo; Mục tiêu 6: Trong lĩnh vực thông tin, truyền thông. Đồng thời, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, trách nhiệm quản lý của chính quyền các cấp trong việc nâng cao nhận thức, triển khai thực hiện và hoàn thiện thể chế về BĐG. Đặc biệt đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong việc thực hiện các quy định về BĐG.

Thứ hai, hoàn thiện hệ thống CSPL bảo đảm các nguyên tắc BĐG trên các lĩnh vực có liên quan. Thực hiện lồng ghép các nội dung BĐG trong xây dựng CSPL và các chương trình, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, các điều kiện để phụ nữ tiếp cận đầy đủ và BĐG các nguồn lực kinh tế (như đất canh tác, các nguồn vốn tín dụng, thông tin thị trường,  thông tin về luật pháp, chính sách), bình đẳng về cơ hội tham gia sản xuất – kinh doanh.

Tiếp tục hoàn thiện chính sách và mở rộng đối tượng tham gia các loại hình bảo hiểm xã hội, nhất là đối với nhóm lao động mới; thực hiện các biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu của nữ giới và nam giới tham gia bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp, chú ý nhóm dễ bị tổn thương (như lao động di cư, lao động nghèo ở vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số). Có chính sách hỗ trợ các cơ sở đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đặc biệt là cơ sở thu hút nhiều lao động nữ.

Thứ ba, xây dựng và triển khai các chương trình nhằm thúc đẩy thực hiện BĐG và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới: truyền thông nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về BĐG; đưa nội dung về BĐG vào hệ thống bài giảng chính thức trong các cấp học; phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới; nâng cao năng lực về BĐG cho cán bộ làm công tác pháp chế, tăng cường lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; tăng cường sự tham gia bình đẳng của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo và quản lý ở các cấp hoạch định chính sách.

Thứ tư, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân về BĐG. Hằng năm, tổ chức triển khai Tháng hành động vì BĐG và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới từ ngày 15/11 đến ngày 15/12.

Thứ năm, tăng cường năng lực bộ máy quản lý nhà nước về BĐG các cấp; xây dựng cơ sở dữ liệu thống kê về giới của quốc gia (như xây dựng cơ sở dữ liệu về thị trường lao động và đào tạo nghề có tách biệt theo giới tính. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo xu hướng và nhu cầu thị trường lao động; tổ chức các cuộc điều tra nhu cầu lao động trong các loại hình doanh nghiệp)7. Tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra liên ngành việc thực hiện pháp luật về BĐG; kiểm tra việc thực hiện các chính sách đối với lực lượng lao động nữ trong chính sách đào tạo nghề, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động và chế độ nghỉ hưu.

Thứ sáu, chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế trong thực hiện các mục tiêu BĐG; tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật, tài chính, chuyên môn của các nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong lĩnh vực BĐG.

Khẳng định vị thế, vai trò của phụ nữ trước sự hội nhập và phát triển của đất nước, phụ nữ Việt Nam tiếp tục có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Bằng những CSPL về BĐG của Đảng và Nhà nước ta ngày càng tạo nhiều cơ hội để nữ giới được nam giới chia sẻ việc nhà, có nhiều thời gian để tham gia vào công tác xã hội và các hoạt động khác. Nhờ các CSPL này mà phụ nữ được bình đẳng về mọi mặt. Chính vì vậy, thúc đẩy BĐG và trao quyền cho phụ nữ là mục tiêu phấn đấu của các nước trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Do đó, bên cạnh những thành tựu đạt được trong lĩnh vực BĐG, chúng ta vẫn cần tiếp tục hoàn thiện CSPL về BĐG; tăng cường vai trò của cả hệ thống chính trị; tranh thủ nguồn lực để bảo đảm BĐG thực sự hiệu quả.

Chú thích:
1. Tổng cục Thống kê. Điều tra về dân số và lao động việc làm quý 2/2020. H. NXB Thống kê, 2020.
2. Viện Nghiên cứu phát triển xã hội (ISDS). Những yếu tố quyết định bất bình đẳng giới ở Việt Nam. H. NXB Hồng Đức, 2015.
3. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hiệp quốc tại Việt Nam. Báo cáo tóm tắt: Kết quả điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 – Hành trình để thay đổi. Hà Nội.
4. Diễn đàn Kinh tế thế giới. Báo cáo khoảng cách giới 2020. http://www3.weforum.org.
5, 6, 7. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Báo cáo rà soát tình hình thực hiện Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 2020. Hà Nội, 2021.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, H. NXB Chính trị quốc gia, 2021.
2. Bộ luật Lao động năm 2019.
3. Hiến pháp năm 1946, 2013.
4. Luật Bình đẳng giới năm 2006.
5. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
6. Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày 04/6/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới.
7. Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 của Chính phủ về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới.
8. Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới.
9. Nghị quyết số 11- NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
10. Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày 03/3/2021 của Chính phủ ban hành Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030.
11. Quyết định số 822/QĐ-TTg ngày 04/10/1997 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000.
12. Quyết định số 19/2002/QĐ-TTg ngày 21/01/2002 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010.
13. Ủy ban Quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam. Hướng dẫn lồng ghép giới trong hoạch định và thực thi chính sách. Hà Nội, 2004.
Lê Thị Vân Huyền
Học viện Hành chính Quốc gia