Những yêu cầu đặt ra với cơ quan nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số

(Quanlynhanuoc.vn) – Quá trình chuyển đổi số đang đặt ra nhiều cơ hội, thách thức cho các tổ chức, doanh nghiệp nói chung và các cơ quan nhà nước nói riêng. Thực tiễn đang vận động, phát triển nhanh, đa chiều và khá phức tạp, khó dự báo của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, đòi hỏi các cơ quan nhà nước cần phải đổi mới nhận thức, tư duy, phương thức, quy trình về chuyển đổi số để đáp ứng yêu cầu phát triển mới. 
Ảnh minh họa (internet)
Chuyển đổi số và chuyển đổi số cơ quan nhà nước

Chuyển đổi số (digital transformation – CĐS) là xu thế tất yếu của thời đại. Theo nhiều nghiên cứu cho thấy, CĐS là quá trình chuyển đổi từ mô hình truyền thống sang mô hình công nghệ dữ liệu lớn, điện toán đám mây, internet vạn vật (IoT)… Trong bối cảnh đó, các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức đan xen. CĐS là cơ hội bứt phá cho cơ quan nhà nước (CQNN) và các doanh nghiệp (DN) vượt lên cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. CĐS tạo nên đột phá lớn trong phát triển kinh tế – xã hội; thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra sự thay đổi tổng thể và toàn diện con người về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất. Vì thế, CĐS không đơn giản chỉ là quá trình số hóa và nâng cấp hạ tầng, nâng cấp ứng dụng công nghệ thông tin mà là một bước ngoặt, bước phát triển mở ra một trật tự mới trong các mối quan hệ của con người, ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt đến hoạt động quản lý xã hội và các hoạt động quản lý của CQNN.

Nhận thức được CĐS không còn là sự lựa chọn mà là xu thế tất yếu của thế giới. Vì vậy, để thích ứng với xu thế mới trong những năm gần đây Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành rất quan tâm và có những chỉ đạo cụ thể. Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó nhấn mạnh yêu cầu cấp bách đẩy nhanh quá trình CĐS. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 52 – NQ/TW, đồng thời, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 01/CT- TTg ngày 14/01/2020 về “Thúc đẩy phát triển công nghệ số Việt Nam”; tiếp đến, ngày 03/6/2020, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/2020/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Chương trình CĐS quốc gia nhằm mục tiêu kép là vừa phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các DN công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu. Quyết định số 749/2020/QĐ-TTg đã xác định tầm nhìn đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất – kinh doanh của DN, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp.

Có thể thấy, đây là mục tiêu hàm chứa ý tưởng lớn, đòi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu rất cao thì mới có thể thực hiện được trong 10 năm tới. Quyết định xác định rõ: 6 quan điểm, 6 nhiệm vụ và đặt ra 9 nhiệm vụ phát triển chính phủ số, 5 nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế số, 7 nhiệm vụ phát triển xã hội số và chỉ ra 8 lĩnh vực ưu tiên CĐS, như: y tế, giáo dục, tài chính, ngân hàng, nông nghiệp, giao thông vận tải và logistics, năng lượng, tài nguyên và môi trường, sản xuất công nghiệp1. Quyết định đã phác thảo bức tranh khá tổng thể, trong thời gian tới, nếu các mục tiêu, chỉ số và nhiệm vụ của quá trình CĐS nêu trên được thực hiện sẽ góp phần tạo nên một Việt Nam hiện đại, đổi mới toàn diện hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Gần đây nhất, Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2021 – 2030,  trong đó xây dựng, phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số là một trong những nội dung mới được đưa vào trong chương trình này. Điều đó, thể hiện sự quan tâm, chú trọng đến việc CĐS không chỉ là chủ trương của Đảng và Nhà nước mà đã triển khai cụ thể vào từng ngành, lĩnh vực của các CQNN. Bởi lẽ, đối với các CQNN, việc CĐS càng có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước và của xã hội. CĐS CQNN là hoạt động phát triển chính phủ số của các cơ quan trung ương và tương ứng với đó là hoạt động phát triển chính quyền số, đô thị thông minh của chính quyền các cấp ở địa phương.

CĐS CQNN tập trung vào phát triển hạ tầng số phục vụ các CQNN một cách tập trung, thông suốt; tạo lập dữ liệu mở dễ dàng truy cập, sử dụng, tăng cường công khai, minh bạch, phòng, chống tham nhũng, thúc đẩy phát triển các dịch vụ số trong nền kinh tế; cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao, cả trên thiết bị di động để người dân, DN có trải nghiệm tốt nhất về dịch vụ, nhanh chóng, chính xác, không giấy tờ, giảm chi phí2.  Vì vậy, việc CĐS tại các CQNN là vấn đề quan trọng để thực hiện thành công chính phủ số và tác động đến sự phát triển về kinh tế cũng như xã hội của đất nước.

Thách thức chuyển đổi số với cơ quan nhà nước

Quá trình CĐS ở nước ta xuất hiện nhiều vấn đề mới đòi hỏi các CQNN cần có sự nghiên cứu, tìm ra giải pháp, như: vấn đề về chuyển đổi nhận thức của toàn xã hội; yêu cầu đổi mới và kiến tạo thể chế theo hướng khuyến khích các sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh số; thúc đẩy phương thức, quy trình quản lý mới; phát triển hạ tầng số, đáp ứng yêu cầu về kết nối và xử lý dữ liệu; phát triển DN số; phát triển kinh tế số; xã hội số; truyền thông số; phát triển nông nghiệp sáng tạo, thương mại điện tử, ứng dụng công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy, học tập; quản trị xã hội; vấn đề bảo đảm an toàn an ninh mạng… Chính vì vậy, CĐS các CQNN đang đứng trước nhiều thách thức, xét trên nhiều phương diện khác nhau.

Thứ nhất, CĐS đòi hỏi thay đổi cả quy trình, phương thức quản lý, điều hành và hệ thống công nghệ thông tin nhưng đối với các CQNN những vấn đề này thường có tính ổn định, thậm chí đề cao sự ổn định gần như mang tính “cố hữu”. Vì vậy, để thay đổi quy trình thực hiện, phương thức quản lý và điều hành đòi hỏi sự thay đổi nhận thức của người đứng đầu (NĐĐ) tổ chức, NĐĐ có thực sự muốn thay đổi, muốn làm hay không muốn làm, đây là thách thức lớn của các CQNN.

Thứ hai, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC), xét ở phương diện bằng cấp, có thể nói đội ngũ CBCC CQNN hiện nay được đào tạo bài bản, hằng năm được đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) chuyên môn nghiệp vụ với nhiều chương trình khác nhau. Nhưng về kiến thức, kỹ năng về kỹ thuật quản trị cơ sở dữ liệu; về khoa học và công nghệ; về cách mạng công nghiệp 4.0… thì còn hạn chế. Hơn thế nữa, sự thiếu hụt về nhân sự có kỹ năng làm chủ công nghệ là thách thức lớn với CQNN, việc ĐTBD để đội ngũ CBCC nhà nước làm chủ được công nghệ đáp ứng yêu cầu công việc có nhiều rào cản nhất định, một mặt, do độ tuổi, giới tính, mặt khác, do môi trường làm việc có tính ổn định cao nên tạo sức ỳ khá lớn “tạo tính cố hữu” nên họ rất ngại thay đổi, ngại tiếp cận với cái mới.

Thứ ba, khả năng thúc đẩy sự thay đổi của các nhà lãnh đạo, quản lý các cấp trong tổ chức. Thành công của CĐS với các CQNN phụ thuộc rất lớn vào khả năng thúc đẩy sự thay đổi của nhà lãnh đạo, quản lý đặc biệt là NĐĐ tổ chức. Nếu NĐĐ tổ chức, một mặt nhận thức về sự chuyển đổi còn hạn chế, mặt khác, nếu họ không muốn thay đổi, thì rất khó để thực hiện, thậm chí là không thể thực hiện được. Hơn thế nữa, việc CĐS không chỉ thay đổi công nghệ mà đòi hỏi phải thay đổi phương thức quản lý, văn hóa tổ chức và đội ngũ nhân sự. Vì thế, để thay đổi phụ thuộc rất lớn vào việc thay đổi nhận thức, tư duy đến phương pháp, quy trình vận hành tổ chức của NĐĐ, của các cấp lãnh đạo, quản lý và tiếp đến là nhận thức của nhân viên trong tổ chức.

Thứ tư, các hệ thống, dữ liệu thuộc sở hữu của các CQNN chưa có sự thống nhất về kỹ thuật số. Hiện tại, mỗi địa phương, bộ, ngành đang sử dụng công nghệ số trên nhiều nền tảng với các phân loại và yêu cầu truy cập khác nhau. Do đó, việc đồng bộ dữ liệu lớn (Big Data) sẽ gặp khó khăn khi dữ liệu lưu trữ nhiều cơ quan khác nhau cần phải có sự cho phép, thông qua nhiều thủ tục mới truy cập được.

Chẳng hạn, nếu bộ phận tiếp nhận làm xuất, nhập cảnh cần xác minh thông tin về căn cước công dân thì sẽ mất thời gian liên hệ với Bộ Công an, hơn thế nữa, nếu một bên đã áp dụng công nghệ lưu trữ thông tin nhưng một bên vẫn lưu trữ theo cách truyền thống (lưu trữ thông tin trên bản giấy) thì điều này làm cho việc giải quyết công việc gặp khó khăn hơn. Hoặc một số lĩnh vực khi thực hiện các thủ tục hành chính cho người dân nhưng do sự kết nối thông tin giữa các ngành, các lĩnh vực chưa đồng bộ nên việc giải quyết hồ sơ, thủ tục hành chính cho người dân mất nhiều thời gian.

Hơn thế nữa, trên thực tế, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực ngay chính trong nội tại của ngành đó cũng còn gặp nhiều khó khăn. Đơn cử như lĩnh vực ngân hàng, hiện ngân hàng nhà nước đang gặp phải 3 thách thức lớn, đó là: (1) Về sự đồng bộ và chuẩn hóa các cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhằm tạo thuận lợi cho việc kết nối liên thông, tích hợp liền mạch giữa ngành ngân hàng với các ngành, lĩnh vực khác để hình thành hệ sinh thái số, cung ứng dịch vụ đa tiện ích cho khách hàng. (2) Về sự đồng bộ, phù hợp của các quy định pháp lý hiện hành liên quan đến giao dịch điện tử, chữ ký, chứng từ điện tử, việc định danh và xác thực khách hàng điện tử, việc chia sẻ dữ liệu và bảo mật thông tin khách hàng, quy trình nghiệp vụ…, với thực tiễn ứng dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng. (3) Thách thức từ thay đổi nhận thức, thói quen, hành vi người tiêu dùng; việc bảo đảm an ninh an toàn và huy động, bố trí nguồn lực phục vụ CĐS3.

Ngoài việc sử dụng nền tảng khác nhau, các CQNN còn thiếu liên kết các quy trình kỹ thuật số, dẫn đến cấu trúc phức tạp, chưa đồng bộ với nhau trong quá trình CĐS. Điều này, dẫn đến khó thống nhất mục tiêu, cũng như lộ trình thực hiện, thậm chí ảnh hưởng đến nguồn vốn thực hiện.

Những yêu cầu đổi mới với cơ quan nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số

Một là, cần thay đổi tư duy, nhận thức của đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là thay đổi tư duy, nhận thức của NĐĐ. Tư duy, nhận thức của NĐĐ trong CĐS là yếu tố quan trọng, quyết định sự thành bại của cơ quan, tổ chức. Bởi vì, tư duy, nhận thức đúng sẽ thúc đẩy sự thay đổi, phát triển tổ chức nhanh. Còn nếu NĐĐ tổ chức không thay đổi nhận thức, tư duy hạn hẹp sẽ là rào cản, thậm chí là “nút thắt cổ chai”, triệt tiêu sự phát triển của tổ chức. Chính vì vậy, thay đổi tư duy, nhận thức của NĐĐ tổ chức đóng vai trò rất quan trọng, bởi tổ chức chỉ có thể thay đổi khi NĐĐ sẵn sàng chấp nhận thay đổi để phát triển tổ chức.

Hai là, nâng cao năng lực cho đội ngũ CBCC, viên chức trong các CQNN. Để thực hiện thành công CĐS, đòi hỏi đội ngũ CBCC, người lao động có những kỹ năng và năng lực nhất định như kỹ năng thu thập và quản lý thông tin, dữ liệu trên môi trường điện tử; kỹ năng về khoa học dữ liệu; kỹ thuật số và quản trị cơ sở dữ liệu; kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin vào giải quyết công việc trên môi trường mạng; khả năng phân tích, khả năng đưa ra các giải pháp dựa trên phân tích dữ liệu và công nghệ.

Để giải quyết được vấn đề này, trong thời gian tới, các cơ quan, tổ chức phải có sự nghiên cứu, đánh giá thực trạng năng lực của CBCC về kỹ thuật công nghệ để từ đó có kế hoạch ĐTBD, đồng thời, cần xác định mục tiêu ngắn hạn và mục tiêu dài hạn trong công tác ĐTBD. Cụ thể: (1) Mục tiêu dài hạn trong 10 năm tới: các CQNN cần có đội ngũ chuyên gia về công nghệ thông tin, vì vậy, cần có chiến lược đào tạo hoặc tuyển dụng nhân sự có chuyên môn sâu về công nghệ thông tin. (2) Đối với nhóm đối tượng CBCC làm việc tại các đơn vị chuyên môn cần có các chương trình ĐTBD phù hợp với yêu cầu công việc; phù hợp với từng nhóm đối tượng. Hằng năm, cần quy định thời gian ĐTBD cập nhật kiến thức để CBCC làm chủ được công nghệ, đáp ứng được yêu cầu công việc trong thời đại mới.

Ba là, muốn thực hiện CĐS thành công bắt buộc phải thay đổi văn hóa tổ chức, đòi hỏi một nền văn hoá thích ứng cao, các CQNN cần phải thích nghi với cả cơ hội mới và ngay cả những nguy cơ đến từ công nghệ mới, thay đổi cả cung cách làm việc và cả hành vi của công dân và tổ chức khi thực hiện công việc với các CQNN. Thay đổi văn hóa cần phải có thời gian, vì vậy, cần có truyền thông trong nội bộ, các bộ phận cần có sự hợp tác và chia sẻ thông tin, khuyến khích sự sáng tạo, để có thể tạo ra các giá trị mới.

Bốn là, xây dựng nền tảng số, kỹ thuật công nghệ thống nhất, đồng bộ, có sự liên kết, liên thông giữa các CQNN, các bộ, ngành với nhau, tạo thuận lợi cho việc trao đổi, giải quyết công việc, đặc biệt những công việc mang tính liên ngành. Để chuẩn hóa cơ sở hạ tầng có sự kết nối liên thông đòi hòi Chính phủ phải đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu xây dựng Luật Giao dịch điện tử thay thế hoặc sửa đổi, bổ sung Luật Giao dịch điện tử năm 2005 để tạo cơ sở pháp lý cho các bộ, ngành hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành có liên quan, giúp đẩy mạnh số hóa, ứng dụng kỹ thuật số, tạo môi trường giao dịch thuận lợi cho người dân, DN qua kênh số, phương thức điện tử.

Bên cạnh đó, xây dựng văn bản pháp luật về định danh và xác thực điện tử và xây dựng hành lang pháp lý về bảo vệ dữ liệu, bảo vệ quyền riêng tư dữ liệu người dùng trên môi trường mạng… Có như vậy, các cơ quan mới có thể chia sẻ thông tin trực tuyến để phục vụ giải quyết công việc.

Hoạt động quản lý nhà nước dù ở giai đoạn nào, CĐS hay không CĐS thì đích đến của CQNN là năng suất, chất lượng và hiệu quả hoạt động. CĐS không chỉ là các CQNN áp dụng công nghệ vào các hoạt động của mình mà đó là quá trình thay đổi từ tư duy nhận thức; thể chế; phương thức, quy trình quản lý; thay đổi văn hóa tổ chức; đội ngũ CBCC. Thiết nghĩ, để con tàu CĐS của quốc gia đi đến thành công, xây dựng chính phủ số, công dân số… thì trước hết các CQNN phải xây dựng và thực hiện thành công CĐS.

Chú thích:
1. Quyết định số 749/2020/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
2. Cẩm nang chuyển đổi số. H. NXB Thông tin và Truyền thông, 2021, tr. 10.
3. Ba thách thức, kiến nghị để ngành Ngân hàng chuyển đổi số thành công. https://haiquanonline.com.vn, ngày 26/5/2021.
Tài liệu tham khảo:
1. Hồ Tú Bảo. Chuyển đổi số quốc gia, cơ hội và thách thức. Báo Nhân dân cuối tuần, ngày 04/01/2020.
2. Chỉ thị 01/CT-TTg ngày 14/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ về thúc đẩy phát triển công nghệ số Việt Nam.
3. Chuyển đổi kỹ thuật số là một hành trình. https://vnmedia.vn, ngày 04/4/2019.
4. Chuyển đổi số: Bối cảnh và thách thức. http://tapchinganhang.gov.vn, ngày 02/7/2021.
5. Cơ hội và thách thức trong chuyển đổi số tại Việt Nam. https://vina-aspire.com, ngày 02/7/2021.
TS. Nguyễn Thị Hà
Học viện Hành chính Quốc gia