Pháp luật về đào tạo nghề luật sư và một số kiến nghị hoàn thiện

(Quanlynhanuoc.vn) – Để hình thành đội ngũ luật sư đông đảo và chất lượng, đáp ứng nhu cầu dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp, thỏa mãn đòi hỏi của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta thì công tác đào tạo nghề nghiệp phải được quan tâm hàng đầu. Những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật về đào tạo nghề luật sư phù hợp với thực tiễn. Bài viết đi sâu phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về đào tạo nghề luật sư với những ưu điểm, hạn chế và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện cho nội dung này.
Ảnh minh họa (internet)
Đặt vấn đề

Nền kinh tế Việt Nam ngày một phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng, các doanh nghiệp, tổ chức được hoạt động ngày một tự do và cởi mở, khiến cho nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý tăng lên một cách rõ rệt. Bên cạnh đó, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền tư pháp độc lập, trong sạch cũng cần có sự đóng góp của đội ngũ luật sư được đào tạo bài bản, chất lượng. Vì thế, công tác đào tạo nghề luật sư (ĐTNLS) được Nhà nước quan tâm và được thiết lập hành lang pháp lý từ khá sớm.

Tuy nhiên, thời gian qua, ngoài những ưu điểm nhất định, pháp luật về ĐTNLS cũng đã bộc lộ những điểm hạn chế cần được sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.

Khái quát pháp luật về đào tạo luật sư ở Việt Nam

Pháp luật về đào tạo luật sư là một bộ phận của pháp luật về luật sư ở Việt Nam, được quy định trong nhiều văn bản mà trọng tâm là Luật Luật sư năm 2012 và một số văn bản hướng dẫn thi hành. Hiện nay, pháp luật về đào tạo luật sư Việt Nam điều chỉnh các vấn đề cơ bản về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước (QLNN), quy định về cơ sở đào tạo (CSĐT), thời gian đào tạo, chương trình khung đào tạo, việc công nhận ĐTNLS ở nước ngoài, việc miễn ĐTNLS…

(1) Về trách nhiệm của cơ quan QLNN: Điều 83 Luật Luật sư năm 2012 quy định Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về luật sư nói chung, bao gồm: QLNN về đào tạo luật sư. Trong phạm vi thẩm quyền, Bộ Tư pháp có quyền “cấp phép thành lập CSĐT nghề luật sư; quy định chương trình khung đào tạo nghề luật sư; quy định chế độ bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ của luật sư; phối hợp với Bộ Tài chính quy định học phí ĐTNLS; quản lý, tổ chức việc bồi dưỡng, đào tạo nghề luật sư”.

(2) Về CSĐT nghề luật sư: Điều 2 Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, trong đó có quy định cơ sở ĐTNLS, bao gồm: Học viện Tư pháp thuộc Bộ Tư pháp và cơ sở ĐTNLS thuộc Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Tuy vậy, hiện nay, cơ sở ĐTNLS thuộc Liên đoàn Luật sư Việt Nam vẫn chưa được thành lập, Học viện Tư pháp vẫn là cơ sở duy nhất ĐTNLS ở Việt Nam. Học viện được thành lập theo Quyết định số 23/2004/QĐ-TTg ngày 25/02/2004 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở trường đào tạo các chức danh tư pháp với nhiệm vụ tập trung thống nhất đầu mối đào tạo các chức danh tư pháp ở Việt Nam.

(3) Về khung ĐTNLS: Bộ Tư pháp là cơ quan có thẩm quyền ban hành quy định khung về ĐTNLS. Trên cơ sở pháp luật, Bộ đã ban hành Quyết định số 2543/QĐ-BTP ngày 07/12/2016 về ban hành Chương trình khung đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư.

(4) Về điều kiện tham gia ĐTNLS: người có bằng cử nhân Luật được tham dự khóa ĐTNLS tại cơ sở ĐTNLS.

(5) Về thời gian ĐTNLS: là 12 tháng. Người học đăng ký tại CSĐT nghề duy nhất là Học viện Tư pháp. Người hoàn thành chương trình ĐTNLS được CSĐT nghề luật sư cấp Giấy chứng nhận tốt nghiệp ĐTNLS.

(6) Về công nhận chứng nhận tốt nghiệp đào tạo luật sư ở nước ngoài: khoản 3 Điều 12 Luật Luật sư năm 2012, Thông tư số 05/2021/TT-BTP ngày 24/6/2021 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, quy định cụ thể các trường hợp công nhận Giấy chứng nhận hoàn thành chương trình ĐTNLS ở nước ngoài và thành phần hồ sơ trong trường hợp người đã hoàn thành chương trình ĐTNLS ở nước ngoài muốn được công nhận ở Việt Nam.

(7) Về miễn ĐTNLS: Điều 13 Luật Luật sư năm 2012 quy định các đối tượng được miễn ĐTNLS: “người đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên; giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật; tiến sỹ luật; đã là thẩm tra viên cao cấp ngành Tòa án, kiểm tra viên cao cấp ngành Kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật; đã là thẩm tra viên chính ngành Tòa án, kiểm tra viên chính ngành Kiểm sát; chuyên viên chính, nghiên cứu viên chính, giảng viên chính trong lĩnh vực pháp luật”. Bên cạnh đó, các loại giấy tờ minh chứng hợp pháp chứng minh được miễn ĐTNLS và miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề luật sư được quy định tại Điều 4 Thông tư số 05/2021/TT-BTP, các trường hợp không được miễn đào tạo được quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị định số 137/2018/NĐ-CP ngày 18/10/2018.

Đánh giá pháp luật về đào tạo luật sư ở Việt Nam

Pháp luật về ĐTNLS Việt Nam đã bao quát nhiều khía cạnh của ĐTNLS, vận dụng và cụ thể hóa có hiệu quả các chủ trương, chính sách, như: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Chiến lược phát triển nghề Luật sư đến năm 2020; Đề án phát triển đội ngũ Luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến năm 2020. Theo báo cáo kết quả thực hiện Quyết định số 2083/QĐ-TTg ngày 18/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ, chỉ tính riêng khoảng thời gian 7 năm thực hiện Quyết định số 2083/QĐ-TTg, ĐTNLS đạt 94,45% chỉ tiêu đề ra (tuyển sinh được 16.530 học viên/17.500 chỉ tiêu, bình quân 2.361/2.500 chỉ tiêu/năm1.

Về chương trình đào tạo, dựa trên chương trình khung được Bộ Tư pháp ban hành, Học viện Tư pháp đã xây dựng chương trình ĐTNLS với cơ cấu khá đa dạng gồm: Chương trình đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư; Chương trình ĐTNLS theo hệ thống tín chỉ; Chương trình ĐTLS phục vụ hội nhập quốc tế; Chương trình ĐTNLS chất lượng cao2.

Các quy định về thời gian đào tạo, công nhận ĐTLS ở nước ngoài, đặc biệt là miễn ĐTNLS cũng tỏ ra phù hợp trong giai đoạn vừa qua khi tận dụng nguồn nhân lực có kiến thức, kinh nghiệm pháp luật sẵn có bổ sung cho đội ngũ luật sư còn chưa thỏa mãn được nhu cầu, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ tư pháp, góp phần cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm không thể phủ nhận thì pháp luật về ĐTNLS vẫn còn những hạn chế gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo cũng như hiệu quả QLNN về ĐTLS.

Thứ nhất, các quy định về ĐTNLS hiện hành có điểm bất hợp lý về chương trình khung ĐTNLS và quy định về miễn đào tạo nghề. Đối với quy định về Chương trình khung, theo quy định của Luật Luật sư hiện hành, Chương trình khung do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định ban hành. Quá trình sửa đổi, bổ sung, phát triển mới chương trình đào tạo được thực hiện qua nhiều cấp với các quy trình từ cấp bộ môn, đến cấp khoa, cấp học viện và lên tới cấp bộ chủ quản đòi hỏi khá nhiều thời gian cơ học3. Việc đặt ra quy trình với nhiều tầng nấc có tác dụng tích cực trong việc kiểm soát chất lượng chương trình của cơ quan QLNN trong bối cảnh hành lang pháp lý liên quan chưa được thiết lập đầy đủ, tuy vậy, chính quy trình thủ tục nhiều tầng nấc này sẽ tạo ra “độ trễ” nhất định so với nhu cầu thực tiễn. Điều này kết hợp với thực tiễn hiện nay, không chỉ riêng Học viện Tư pháp mà các CSĐT công lập đã chuyển mạnh sang cơ chế tự chủ toàn diện về thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính và tài sản thì quy định nêu trên thực sự là hạn chế phải được nghiên cứu điều chỉnh.

Đối với quy định về miễn đào tạo nghề, mặc dù cần thừa nhận rằng, quy định này tỏ ra hợp lý khi cung cấp đội ngũ luật sư có sẵn kinh nghiệm hành nghề luật mà không cần qua đào tạo trong bối cảnh lực lượng luật sư còn thiếu. Tuy nhiên, về lâu dài, khi lực lượng luật sư được đào tạo bài bản qua các CSĐT đã tiệm cận nhu cầu của xã hội thì điều này sẽ nảy sinh nhiều hệ quả. Cụ thể, một số đối tượng được miễn theo quy định tại Điều 13 Luật Luật sư như nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp, chuyên viên chính, nghiên cứu viên chính, giảng viên chính trong lĩnh vực pháp luật là những đối tượng có kiến thức chuyên sâu về pháp luật và có thời gian được áp dụng những kiến thức đó vào thực tế nhưng ở những vị trí công tác khác, vai trò khác nhiều với luật sư. Điều này đặt ra những băn khoăn về kinh nghiệm, kỹ năng liên quan đến hành nghề luật sư của nhóm đối tượng này. Ở khía cạnh khác, quy định về miễn giảm như hiện nay cũng làm suy giảm sự cạnh tranh minh bạch, lành mạnh để hướng đến cung cấp dịch vụ pháp lý ngày một chuyên nghiệp của cơ quan tư pháp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho thân chủ của mình, đặc biệt là trong quá trình tố tụng.

Thứ hai, pháp luật về ĐTNLS hiện hành thiếu vắng các quy định cần thiết. Đó là các quy định về trách nhiệm của chủ thể QLNN về ĐTNLS, trách nhiệm của CSĐT cũng như của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư đối với chất lượng, hiệu quả ĐTNLS. Hiện nay, khi đề cập vấn đề chất lượng ĐTNLS thì đa số các ý kiến đánh giá, nhận xét đều tập trung vào trách nhiệm của CSĐT là Học viện Tư pháp. Điều này là hợp lý nhưng chưa đầy đủ và toàn diện. Học viện Tư pháp tuy giữ vị trí đặc biệt và nắm nhiều lợi thế nhưng công tác đào tạo tại cơ sở này phải chịu ảnh hưởng nhiều từ các yếu tố khách quan, đến từ quy định về nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan QLNN trong quy định khung đào tạo, vai trò, chức năng của từng bên liên quan theo luật hiện hành; vai trò phối hợp tham gia hoạt động đào tạo của tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư.

Việc triển khai các quy định hiện hành về ĐTNLS, theo quy định của Luật Luật sư năm 2012 thì tổ chức xã hội nghề nghiệp là Liên đoàn Luật sư Việt Nam cũng được phép tổ chức CSĐT và tiến hành đào tạo nghề nhưng đến nay cơ sở này vẫn chưa được ra đời dù đã hình thành đề án và tổ chức nhiều cuộc thảo luận. Vì thế, đến nay, việc ĐTNLS vẫn do một CSĐT duy nhất tiến hành là Học viện Tư pháp, do vậy, không tránh khỏi việc Học viện được hưởng những ưu thế nhất định, thiếu đi sự cạnh tranh trong đào tạo. Trong khi đó, sự cạnh tranh này chính là một yếu tố thúc đẩy việc đổi mới, nâng cao chất lượng của từng CSĐT trên nhiều phương diện như chương trình đào tạo, chất lượng đầu vào cũng như đầu ra, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng ĐTNLS ở Việt Nam hiện nay.

Về hạn chế liên quan đến chậm ban hành quy định về đào tạo nghề, đó là chậm ban hành Pháp lệnh đào tạo một số một số chức danh tư pháp. Đây là Dự án đã được Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015 (theo Nghị quyết số 70/2014/QH13 ngày 30/5/2014 của Quốc hội)4. Qua các phiên họp, thảo luận, đã có nhiều ý kiến khác nhau đối với quy định trong Dự thảo Pháp lệnh về vấn đề đào tạo chung nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư. Trong đó, đáng chú ý có nhiều ý kiến phản đổi việc đào tạo chung nguồn dựa trên luận điểm hiện nay Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đã có đào tạo nghề của mình, Liên đoàn Luật sư Việt Nam theo Luật cũng được phép thành lập cơ sở ĐTNLS. Nếu thiết lập mô hình đào tạo chung cũng sẽ khó khăn trong việc tuyển sinh đầu vào và sử dụng học viên sau khi đã tốt nghiệp khóa đào tạo của Học viện Tư pháp.

Mặt khác, công tác đào tạo, bồi dưỡng luôn gắn với công tác tuyển dụng, quản lý, sử dụng cán bộ, công chức. Đây là một quy trình thống nhất, liên hoàn, nằm trong quy hoạch, kế hoạch, chiến lược về phát triển nguồn nhân lực của mỗi ngành nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của từng ngành. Mỗi ngành phải chủ động và chịu trách nhiệm về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của ngành mình5.  Chính vì vậy, cơ quan thẩm tra Pháp lệnh là Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã đề nghị Bộ Tư pháp là cơ quan chủ trì soạn thảo cần tiếp tục nghiên cứu, thảo luận một cách thấu đáo những nội dung còn nhiều ý kiến khác nhau để trình vào phiên họp sau. Thực tế việc chậm ban hành Pháp lệnh này không chỉ ảnh hưởng đến việc hoàn thiện hành lang pháp lý cho ĐTNLS mà cả các chức danh tư pháp khác. Đây là hoạt động đào tạo có tính đặc thù, đào tạo nghề đặc biệt, phục vụ hoạt động tố tụng, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Giáo dục và Luật Giáo dục nghề nghiệp.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đào tạo nghề luật sư ở Việt Nam

Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài”6. Việc tiếp tục phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế là hoàn toàn phù hợp với chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Để đáp ứng những nhiệm vụ này, đồng thời khắc phục những điểm chưa hợp lý của pháp luật về ĐTNLS đã phân tích, có thể đưa ra một số giải pháp sau đây:

Một là, sửa đổi các quy định bất hợp lý còn tồn tại trong pháp luật về ĐTNLS. Trong đó, nghiên cứu sửa đổi quy định về thẩm quyền QLNN đối với chương trình ĐTNLS tại khoản 4 Điều 12 Luật Luật sư năm 2012. Trong thời gian tới, có thể xem xét quy định theo hướng Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền phê duyệt Chương trình khung ĐTNLS trên cơ sở đề xuất của cơ sở ĐTNLS thay vì Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định Chương trình khung như hiện nay.

Sửa đổi các quy định liên quan đến miễn ĐTNLS theo hướng quy định đặc thù, chi tiết hơn đối với từng loại đối tượng được miễn đào tạo dựa trên vị trí công tác, tính chất công việc trước đó đã đảm nhiệm. Bên cạnh quy định các trường hợp miễn đào tạo, miễn giảm thời gian cấp chứng chỉ thì cần bổ sung khoảng thời gian chưa được phép hành nghề sau khi thôi các chức vụ trong các cơ quan tư pháp. Quy định như vậy nhằm kiểm soát xung đột lợi ích có khả năng hình thành hành vi tham nhũng của nhóm đối tượng này, ngăn ngừa họ sử dụng các mối quan hệ đã có để tư lợi khi hành nghề luật sư. Để thiết kế các quy định này trong pháp luật về luật sư, pháp luật luật tố tụng cần lưu ý đến sự tương thích với quy định của pháp luật phòng, chống tham nhũng về kiểm soát xung đột lợi ích cũng như tham khảo kinh nghiệm quốc tế. Điều này mang ý nghĩa vừa hướng đến lành mạnh hóa dịch vụ pháp lý, vừa góp phần phòng ngừa tham nhũng.

Hai là, xây dựng bổ sung các quy định về trách nhiệm bảo đảm hiệu quả, bảo đảm chất lượng ĐTNLS. Các quy định này cần  mang tính hệ thống, vừa bảo đảm quản lý chất lượng đầu vào, vừa bảo đảm quản lý chất lượng đầu ra và được xây dựng dựa trên nguyên tắc quản lý được thừa nhận theo pháp luật, đó là, kết hợp giữa QLNN và tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư. Khi đó, Bộ Tư pháp thực hiện thẩm quyền QLNN đối với chất lượng ĐTNLS bằng việc xây dựng và tham gia vào cơ chế phối hợp nhiều bên trên cơ sở chức năng, thẩm quyền, quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của từng bên.

Ba là, liên quan đến thực hiện các quy định pháp luật về ĐTNLS, cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đề án về trường đào tạo của Liên đoàn Luật sư, tạo môi trường đào tạo có sự cạnh tranh nhất định, đem lại thêm sự lựa chọn cho những đối tượng có nhu cầu được đào tạo về ngành nghề luật sư. Cùng với đó, tiếp tục thu nhận các ý kiến góp ý, chỉnh sửa và cho ra đời Pháp lệnh đào tạo một số chức danh tư pháp nhằm tạo cơ sở pháp lý hoàn thiện, thống nhất, đồng bộ cho hoạt động đào tạo luật nói chung, đào tạo nguồn thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư nói riêng, khắc phục hạn chế về chất lượng và những hạn chế, vướng mắc về hoạt động đào tạo trong thời gian qua.

Chú thích:
1. Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp. Báo cáo kết quả thực hiện Quyết định số 2083/QĐ-TTg ngày 08/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp.
2. Nguyễn Xuân Thu. Học viện Tư pháp – 20 năm đào tạo các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong thời gian tới. Tạp chí Nghề Luật, số chuyên đề Học viện Tư pháp 20 năm xây dựng và phát triển, năm 2018, tr. 20.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề luật sư ở Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030. https://lsvn.vn, ngày 28/6/2021.
4. Dự thảo Pháp lệnh đào tạo một số chức danh tư pháp. https://duthaoonline.quochoi.vn, truy cập ngày 02/9/2021.
5. Phiên họp thứ 46: Chưa thông qua Pháp lệnh về đào tạo các chức danh tư pháp. https://congly.vn, ngày 08/3/2016.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 329.
Vũ Hoàng Dương
Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam