Nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong phòng, chống tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan đến tín dụng đen

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết khái quát tình hình tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới tín dụng đen và làm rõ nguyên nhân, điều kiện thuộc về công tác thực thi pháp luật trong đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp trọng tâm góp phần nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật trong phòng, chống tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới tín dụng đen.
Ảnh minh họa (internet)

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vay vốn của người dân và doanh nghiệp ngày càng gia tăng, trong khi tín dụng chính thức lại chưa thể đáp ứng được nhu cầu vay vốn của các đối tượng, do vậy, hoạt động tín dụng đen (TDĐ) vẫn tồn tại và diễn biến ngày càng phức tạp. Theo Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, quy mô tín dụng phi chính thức tại Việt Nam hiện nay tương đương khoảng 15 – 20% tổng tín dụng của nền kinh tế, trong đó quy mô TDĐ chiếm khoảng 30 – 35% tổng tín dụng phi chính thức, tương đương 6 – 8% tổng dư nợ nền kinh tế, khoảng 450 – 550 nghìn tỷ đồng1. TDĐ ngày càng hoành hành và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau; len lỏi vào mọi ngóc ngách, từ thành thị tới nông thôn, từ miền xuôi lên miền ngược; đa dạng trong các gói vay, hướng tới không chỉ những người lao động nghèo mà còn có cả các doanh nghiệp… TDĐ thực sự đã trở thành “vấn nạn” của toàn xã hội, kéo theo nhiều hệ lụy là sự gia tăng của các loại tội phạm, trong đó đặc biệt là tình trạng tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ.

Báo cáo của Cục Cảnh sát Điều tra tội phạm về trật tự xã hội – Bộ Công an cho biết, giai đoạn 2010 – 2020, trên địa bàn toàn quốc đã xảy ra 10.305 vụ phạm tội liên quan tới TDĐ, trong đó có 1.207 vụ phạm tội cưỡng đoạt tài sản (chiếm 11,7%) với 3.634 đối tượng, chiếm đoạt được số tiền 219,5 tỷ đồng2. Nhiều vụ có dấu hiệu phạm tội theo kiểu băng nhóm “xã hội đen”; sử dụng đa dạng các phương thức, thủ đoạn nhằm cưỡng đoạt tài sản, như: sử dụng vũ khí, hung khí nguy hiểm đe dọa, dùng chất bẩn, vòng hoa tang, quan tài, dán “cáo phó” tại nơi ở của bị hại và gia đình họ để khủng bố về tinh thần… Hành vi phạm tội của các đối tượng không chỉ xâm hại tới quyền sở hữu tài sản của công dân mà còn xâm hại tới quan hệ nhân thân, làm phát sinh nhiều loại tội phạm và vi phạm pháp luật có liên quan, như: giết người, cố ý gây thương tích, bắt giữ người trái pháp luật, hủy hoại tài sản, gây rối trật tự công cộng… với nhiều thủ đoạn tinh vi, manh động, liều lĩnh, gây hoang mang, lo lắng và bức xúc cho quần chúng nhân dân, làm giảm sút niềm tin của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan thực thi pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự (ANTT).

Trước tình hình đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và đặc biệt là Chỉ thị số 12/CT-TTg ngày 25/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động TDĐ, trong đó có tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ, các bộ, ngành, địa phương, đoàn thể các cấp đã đồng loạt triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh và đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần hạn chế loại tội phạm này. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót, ảnh hưởng đến hiệu quả và chất lượng của công tác phòng, chống tội phạm. Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến hạn chế nhưng chủ yếu là do: hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập; cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa được chặt chẽ; công tác thanh tra, kiểm tra chưa được tiến hành thường xuyên có trọng tâm, trọng điểm, kết quả xử lý chưa kiên quyết, chưa triệt để, tính răn đe chưa cao; công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về cho vay dân sự, về phương thức, thủ đoạn hoạt động và hậu quả tác hại của tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục…

Những hạn chế, thiếu sót nêu trên, đặt trong dự báo về tình hình tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ trong thời gian tiếp theo sẽ còn có những diễn biến phức tạp, với phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi và tính chất có thể sẽ nghiêm trọng hơn nếu các cơ quan chức năng buông lỏng hoạt động quản lý, phòng ngừa, đấu tranh. Thực tế đó đã và đang đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật trong phòng, chống tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ. Trong đó, cần tập trung vào các giải pháp cơ bản như:

Một là, tham mưu, đề xuất, tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý vững chắc trong phòng, chống tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ. Theo đó, các bộ, ngành chủ động rà soát, tham mưu, kiến nghị, đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật nhằm làm rõ những vướng mắc, bất cập liên quan đến hoạt động vay mượn trong giao dịch dân sự; các quy định pháp luật về quản lý hoạt động cho vay; các quy định về cấp phép, quản lý, giám sát, kiểm tra hoạt động kinh doanh; các quy định của pháp luật về công tác giám định tài chính nhằm khắc phục những khó khăn, vướng mắc đối với các vụ án hình sự liên quan đến TDĐ; các quy định về chế tài xử lý đối với tội phạm và vi phạm pháp luật về TDĐ nói chung, tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ nói riêng cũng như các quy định về chức năng, nhiệm vụ của các lực lượng cùng thực hiện công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Trên cơ sở đó, kiến nghị, đề xuất các nội dung sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật, bảo đảm phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Cần tập trung vào các văn bản quy phạm pháp luật, như: Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự, Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Dân sự, Luật Đầu tư, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường và các văn bản pháp luật liên quan…

Hai là, đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng ngân hàng, các gói, khoản cho vay ưu đãi đến mọi tầng lớp nhân dân. Các ngân hàng, tổ chức tín dụng có chính sách mở rộng, đa dạng các loại hình cho vay, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng; phát triển các công ty tài chính, tổ chức tài chính vi mô phủ khắp các vùng, miền với thủ tục nhanh gọn và thuận tiện, đáp ứng nhu cầu vay vốn chính đáng, hợp pháp phục vụ đời sống, tiêu dùng của Nhân dân để góp phần ngăn chặn “tín dụng đen”. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, phát triển các dịch vụ cho vay, thanh toán trực tuyến, gắn với cải cách thủ tục hành chính, đơn giản quy trình, thủ tục vay vốn theo hướng thuận lợi để mọi tầng lớp nhân dân dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn vay hợp pháp khi có nhu cầu.

Tiếp tục huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong Nhân dân, phát huy tiềm năng, nội lực của nền kinh tế; đồng thời, xây dựng cơ chế, quy định pháp luật để quản lý hoạt động vay ngân hàng, vay trực tuyến…

Ba là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật, các kiến thức cần thiết có liên quan đến phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động TDĐ. Trong đó, tập trung tuyên truyền các chủ trương, chính sách, quy định của pháp luật liên quan đến TDĐ, trong đó có phòng ngừa tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ; các nội dung về diễn biến tình hình, phương thức, thủ đoạn, hậu quả, tác hại, nguyên nhân, điều kiện của tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ; đa dạng các hình thức tuyên truyền như tận dụng môi trường mạng internet, mạng xã hội để vừa tuyên truyền vừa để tiếp nhận, phát hiện những vụ việc có dấu hiệu tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động TDĐ để báo cho cơ quan chức năng…

Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ, các mô hình phòng, chống tội phạm tại địa bàn cơ sở, phát động phong trào tố giác tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong tổ chức hướng dẫn cho người dân nhận diện, cách thức xử lý đối với các phương thức, thủ đoạn mới của các đối tượng phạm tội cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ.

Bốn là, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, các cấp các ngành, các đoàn thể, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và sự hưởng ứng, ủng hộ của quần chúng nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ. Thành lập các tổ công tác liên ngành, trong đó lực lượng Công an làm nòng cốt, tiến hành kiểm tra hành chính các cơ sở cầm đồ, cho vay, kinh doanh tài chính, dịch vụ đòi nợ và các cơ sở kinh doanh khác có biểu hiện hoạt động cho vay lãi nặng, đòi nợ thuê nhằm phát hiện tội phạm và vi phạm pháp luật để xử lý nghiêm. Xây dựng quy chế phối hợp giữa các sở ngành chức năng trong việc quản lý, thẩm định hồ sơ đăng ký kinh doanh đối với ngành nghề, dịch vụ kinh doanh cầm đồ, kinh doanh tài chính, cấp giấy đăng ký kinh doanh đúng quy định.

Siết chặt việc cấp Giấy chứng nhận và tăng cường quản lý, kiểm tra các cơ sở kinh doanh có điều kiện về ANTT, nhất là các cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ, đòi nợ; kiên quyết xử lý, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện về ANTT đối với các cơ sở vi phạm. Rà soát các ngành nghề kinh doanh thường bị các đối tượng hoạt động “tín dụng đen” lợi dụng, núp bóng hoạt động, dễ phát sinh các loại tội phạm và vi phạm pháp luật, đánh giá tác động ảnh hưởng đến công tác bảo đảm ANTT, đề xuất, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi các văn bản pháp luật liên quan để siết chặt quản lý. Tăng cường công tác quản lý các đối tượng hình sự hoạt động lưu động, các đối tượng có tiền án, tiền sự, các đối tượng nghiện ma túy, tội phạm có tổ chức, các nhóm thanh thiếu niên hư nhằm hạn chế việc các đối tượng này tham gia hoặc tiếp tay cho hoạt động đòi nợ thuê, hạn chế việc phát sinh tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ…

Bên cạnh đó, các bộ, ngành, địa phương phối hợp triển khai kế hoạch điều tra cơ bản trên toàn quốc về các tổ chức, cá nhân, cơ sở hoạt động kinh doanh tài chính, cầm đồ, huy động vốn với lãi suất cao bất thường, tham gia hụi, họ, biêu, phường có dấu hiệu cưỡng đoạt tài sản để nắm tình hình, chủ động phát hiện, điều tra, xử lý các vi phạm, gắn với triển khai có hiệu quả Đề án 2 về “Phòng, chống các loại tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia” thuộc Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ.

Năm là, mở các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm trên phạm vi toàn quốc và trên không gian mạng để đấu tranh quyết liệt các loại tội phạm, vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động “tín dụng đen”, gắn với đấu tranh, triệt phá, làm tan rã các băng, nhóm tội phạm hoạt động bảo kê, cưỡng đoạt tài sản, cho vay nặng lãi, đòi nợ thuê…

Sáu là, thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, nhất là tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố liên quan đến cho vay lãi nặng, đòi nợ thuê, vỡ hụi, họ… và các vụ việc khác có dấu hiệu tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ. Trên cơ sở đó, tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ; bảo đảm xử lý kịp thời, nghiêm minh các đối tượng vi phạm… Qua đó, làm rõ các phương thức, thủ đoạn, nguyên nhân, điều kiện của tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ để cảnh báo và kiến nghị xây dựng các giải pháp khả thi; đồng thời giáo dục, răn đe các đối tượng phạm tội, tạo lòng tin để quần chúng nhân dân tích cực tham gia phòng, chống tội phạm cưỡng đoạt tài sản liên quan tới TDĐ.

Chú thích:
1. Giải pháp ngăn chặn hữu hiệu hoạt động tín dụng đen. https://tapchitaichinh.vn, ngày 03/8/2019.
2. Bộ Công an – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Kỷ yếu hội nghị khoa học “Tuyên truyền mở rộng tín dụng ngân hàng, đấu tranh với hoạt động tín dụng đen và trao tặng an sinh xã hội”, Hòa Bình, 2020.
Tài liệu tham khảo:
1. Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về TTXH. Báo cáo sơ kết 1 năm thực hiện Chỉ thị số 12/CT-TTg ngày 25/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động “tín dụng đen”, Hà Nội, 2020.
2. Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2010.
3. Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.
4. Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030.
ThS. Nguyễn Việt Hà
Học viện Cảnh sát nhân dân