Một số vấn đề về chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) – Chất vấn là một hình thức giám sát của đại biểu Quốc hội, hoạt động chất vấn thể hiện quyền lực của cơ quan dân cử và trách nhiệm của các đại biểu dân cử với cử tri của mình, đồng thời cũng xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan công quyền. Thông qua hoạt động chất vấn cho biết người trả lời chất vấn có trách nhiệm, thẳng thắn, không vòng vo, né tránh, có trách nhiệm giải trình hay không. Bên cạnh đó, các đại biểu Quốc hội cũng thể hiện được năng lực, trình độ nghiên cứu, nắm chắc vấn đề dư luận và cử tri quan tâm để đặt các câu hỏi và tranh luận có chất lượng. Bài viết nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội hiện nay.
Ảnh minh họa. Nguồn: quochoi.vn.
Cơ sở pháp lý của chất vấn – hình thức giám sát của đại biểu Quốc hội

Hiện nay, Nhà nước ta đã ban hành khá đầy đủ cơ sở pháp lý thực hiện quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội (ĐBQH), trong đó Hiến pháp năm 2013 và các luật, như: Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) năm 2015, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015, các luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước… Đồng thời, các cơ quan dân cử cùng với hệ thống các cơ quan nhà nước khác ngày càng được xây dựng, củng cố và hoàn thiện, tạo điều kiện cho ĐBQH thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

Chất vấn của ĐBQH có đặc điểm: (1) Chất vấn nhằm tìm kiếm sự thật; quy kết trách nhiệm, xác định biện pháp giải quyết mà không chỉ là tìm hiểu thông tin và người bị chất vấn buộc phải trả lời. (2) Chất vấn của ĐBQH có nguồn gốc sâu xa từ nhu cầu kiểm soát, giám sát quyền lực. (3) Chất vấn là công cụ giám sát quan trọng và hiệu quả của ĐBQH nhằm quy trách nhiệm cá nhân (không phải là trách nhiệm của tập thể) trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ, yêu cầu các cá nhân có thẩm quyền phải hành động theo đúng Hiến pháp và pháp luật, theo lương tâm và trách nhiệm. (4) Chất vấn là một biện pháp không thể thiếu nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước phù hợp với nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân.

Đánh giá chung về chất vấn của đại biểu Quốc hội

Kết quả đạt được thời gian qua cho thấy, hoạt động chất vấn (HĐCV) của ĐBQH ngày một hoàn thiện về hình thức lẫn nội dung và đã có nhiều kết quả tích cực; qua chất vấn của ĐBQH, nhiều vấn đề nổi cộm, bức xúc đã được giải quyết, sự băn khoăn, thắc mắc của cử tri phần nào được giải tỏa, góp phần thể hiện rõ tính chất là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, làm tăng vai trò đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân; hoàn thành tốt chức năng giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.

Về quy định trình tự HĐCV tại kỳ họp của Quốc hội theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015 đã quy định chi tiết về trình tự, thủ tục HĐCV của ĐBQH bảo đảm tính chủ động, có kế hoạch của HĐCV, bảo đảm chất vấn có trọng tâm, sát thực; xác định rõ hơn hình thức chất vấn và trả lời chất vấn, chất vấn lại, quy kết trách nhiệm; chi tiết các trường hợp cho trả lời bằng văn bản và quy định rõ trình tự, thủ tục của việc trả lời bằng văn bản… Điều này cho thấy, quy định pháp luật trong vấn đề này đã được quan tâm hoàn thiện từng bước, thể hiện tinh thần, thái độ coi trọng vai trò, ý nghĩa của quy trình, trình tự, thủ tục chất vấn nói riêng và HĐCV của ĐBQH nói chung, tránh sự tùy tiện trong quá trình triển khai nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tham gia HĐCV từ HĐCV của các ĐBQH.

Một số hạn chế khi thực hiện HĐCV của các ĐBQH vẫn còn là do ĐBQH chất vấn hời hợt, không thực tế, nhận định vấn đề không trúng và chưa đúng, có hiện tượng ĐBQH ngại va chạm, né tránh; ĐBQH chưa sử dụng tối đa thẩm quyền mà mình được trao, có đại biểu trong cả nhiệm kỳ chưa một lần tham gia phát biểu tại các kỳ họp; nhiều vấn đề xã hội quan tâm đưa ra chất vấn nhiều lần nhưng không được giải quyết triệt để khiến cử tri không hài lòng. Bên cạnh đó, khi triển khai các quy định trong các văn bản pháp luật vào thực tế của đời sống xã hội là một quá trình đòi hỏi vừa phải quán triệt, vừa phải linh hoạt với thực tế điều kiện từng địa phương khiến nhiều ĐBQH cũng gặp lúng túng khi thực thi trách nhiệm của mình.

Ngoài ra, HĐCV của ĐBQH là hoạt động không chuyên trách, không thường xuyên, lại biến động sau mỗi nhiệm kỳ bầu cử; đại biểu được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trình độ khác nhau và cơ cấu về giới, thành phần; hoạt động của ĐBQH đòi hỏi nhiều kỹ năng: tiếp xúc cử tri; chất vấn; thu thập, phân tích và xử lý thông tin; giám sát; đánh giá; xây dựng chương trình hoạt động. Trong đó kỹ năng chất vấn của ĐBQH phản ánh trình độ, năng lực, sự hiểu biết, nghệ thuật đối thoại của đại biểu; do chất vấn là một hoạt động thuộc về phạm trù hoạt động giám sát của đại biểu, do vậy, người đại biểu phải lựa chọn câu hỏi chất vấn hết sức thận trọng, câu hỏi đúng trọng tâm, khúc chiết và dứt khoát, những bằng chứng, thông tin, dữ liệu trong câu hỏi chất vấn phải mang tính xác thực, có địa chỉ rõ ràng, đúng với đối tượng bị chất vấn. Trước khi chất vấn vấn đề gì, nội dung gì, đòi hỏi người đại biểu phải tìm hiểu thật kỹ vấn đề, nội dung cần chất vấn, thu thập các thông tin, các bằng chứng xác thực. Câu hỏi chất vấn của đại biểu thường gắn với hệ quả pháp lý, buộc đối tượng bị chất vấn phải giải trình rõ ràng cái đúng, cái sai và xác định rõ hệ quả pháp lý trước Quốc hội, trước cử tri và trước đại biểu.

Một vấn đề còn hạn chế ở HĐCV của ĐBQH là về phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của ĐBQH. Điều này thể hiện ở khả năng của ĐBQH trong việc phản ánh chính xác các kiến nghị, nghi vấn, bức xúc của cử tri cho các cá nhân, cơ quan bị chất vấn, thể hiện tâm tư, thái độ và nguyện vọng của cử tri. Ở khía cạnh này, chất lượng HĐCV được bảo đảm khi các ĐBQH ý thức được đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình, có khả năng sử dụng đúng và tối đa thẩm quyền mà mình được trao, có kỹ năng chất vấn và có thái độ kiên quyết trong quá trình thực hiện hoạt động chất vấn. Đây chính là thước đo khả năng đại diện và mức độ thực hiện chức năng đại diện của ĐBQH với cử tri.

Từ một khía cạnh khác có thể thấy, chính HĐCV đến lượt nó tác động trở lại tới ĐBQH ở chỗ nếu câu hỏi chất vấn thể hiện ĐBQH đã sâu sát vấn đề, tìm hiểu kỹ càng vấn đề, đưa ra được những câu hỏi buộc người bị chất vấn phải giải trình làm rõ, phải có biện pháp giải quyết để tạo sự chuyển biến cho vấn đề trên thực tế, thỏa mãn yêu cầu của cử tri thì khi đó ĐBQH đã thể hiện rõ được vai trò, trách nhiệm của mình trước  Nhân dân, thể hiện rõ sự hoàn thành trọng trách được cử tri giao phó và giành được sự tín nhiệm của Nhân dân.

Về trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị đại biểu công tác trong việc hỗ trợ cho các ĐBQH còn hạn chế, nhất là về thời gian để đại biểu có điều kiện hoạt động vì còn thiếu đại biểu hiện nay là hoạt động không chuyên trách. Hoạt động đại biểu không đơn thuần chỉ dự các kỳ họp, tiếp xúc cử tri mà cần có quỹ thời gian nhất định để nghiên cứu chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nắm tình hình kinh tế – xã hội, đời sống Nhân dân, các yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân để hoạt động của đại biểu tại các kỳ họp, tại các buổi tiếp xúc cử tri và nhất là trong chất vấn đạt chất lượng cao hơn, bảo đảm thực hiện tốt chức năng ra quyết định các vấn đề quan trọng về kinh tế – xã hội và chức năng giám sát hoạt động của cơ quan, người đứng đầu các cơ quan nhà nước.

Thái độ, trách nhiệm của người trả lời chất vấn cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến HĐCV, vẫn còn những ý kiến của cử tri phản ánh là một số câu hỏi của ĐBQH còn chung chung. Một số quy định về chất vấn chưa rõ ràng như: về thời hạn những lĩnh vực mà đại biểu được phép chất vấn, về quyền của Bộ trưởng chỉ trả lời những vấn đề liên quan đến chính sách…

Một số giải pháp cho hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội

Một là, quy định cách thức thực hiện thẩm quyền này theo hướng không xác định nội dung chất vấn mà để ĐBQH trực tiếp hỏi về những nội dung đại biểu quan tâm. Lựa chọn các vấn đề chất vấn ưu tiên cho những vấn đề quốc tế dân sinh, những vấn đề mà chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đang coi là trọng tâm trong từng thời điểm, như: xóa đói, giảm nghèo, kích cầu, chống tham nhũng, cải cách hành chính…

Theo Hiến pháp, ĐBQH có quyền chất vấn về mọi vấn đề mà cử tri quan tâm hoặc cá nhân đại biểu thấy cần thiết phải chất vấn. Tuy nhiên, do thời gian chất vấn có hạn, nên cần phải có sự định hướng, tham mưu để HĐCV và trả lời chất vấn tại các kỳ họp đạt hiệu quả cao hơn. Trong quá trình chất vấn, ĐBQH cần chú ý đến việc xem xét trách nhiệm cá nhân của thành viên được chất vấn.

Hai là, ra nghị quyết về chất vấn khi ban hành nhằm quy kết rõ ràng trách nhiệm của cơ quan, người trả lời chất vấn sẽ tạo áp lực mang tính quy phạm buộc người trả lời chất vấn phải thực hiện nghiêm túc lời hứa của mình, làm cơ sở cho Quốc hội, các ĐBQH và đông đảo cử tri theo dõi, giám sát việc thực hiện lời hứa tại phiên chất vấn của người bị chất vấn. Ngoài ra, cần nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi quy định liên quan đến hậu quả pháp lý của HĐCV để có chế tài xử lý phù hợp trong trường hợp người trả lời chất vấn đã đưa ra những lời hứa khắc phục, chấn chỉnh tình hình hoặc ban hành văn bản để điều chỉnh nhưng không thực hiện.

Ba là, việc pháp luật quy định cử tri có quyền bãi nhiệm khi ĐBQH không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn, không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân là chưa thực sự phù hợp bởi sẽ tạo ra áp lực cho ĐBQH trong việc bằng mọi cách phải bảo vệ lợi ích của cử tri, cho dù đó chỉ là lợi ích của một nhóm người mà không phải là lợi ích chung của cộng đồng hoặc trong trường hợp lợi ích của nhóm cử tri đi ngược lại lợi ích của địa phương. Do đó, để bảo vệ ĐBQH trước áp lực của quyền bãi nhiệm ĐBQH của cử tri, để bảo đảm tính độc lập và quyền tự do phát biểu ý kiến, phản ánh đầy đủ tâm tư, nguyện vọng của cử tri từ ĐBQH, cần bổ sung quyền miễn trừ trách nhiệm pháp lý đối với phát biểu của ĐBQH ở các phiên chất vấn.

Bốn là, cần đổi mới về nhận thức của xã hội, trách nhiệm của ĐBQH khi thực hiện chất vấn bởi lẽ vẫn còn có những đại biểu chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của cá nhân đại biểu, e ngại, thiếu tự tin, ngại va chạm trên diễn đàn trong hoạt động giám sát, chất vấn, cũng như trong tiếp xúc cử tri.

Năm là, cần thực sự coi trọng việc lựa chọn các ứng cử viên để bầu; việc xây dựng cơ cấu đại biểu cần cân nhắc làm thế nào vừa bảo đảm tính cơ cấu (vùng miền, dân tộc, tôn giáo, các lĩnh vực kinh tế – xã hội quan trọng…) vừa bảo đảm chất lượng đại biểu, không nên nặng về cơ cấu mà xem nhẹ tiêu chuẩn năng lực. Thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực của đại biểu theo quy định của pháp luật, có thể tổ chức tập huấn theo chuyên đề, tổ chức giao ban, hội thảo trao đổi rút kinh nghiệm cho các đại biểu, thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng hoạt động cho các đại biểu bằng nhiều hình thức. Bồi dưỡng các kiến thức về quản lý nhà nước, pháp luật và kỹ năng có tính đặc thù trong hoạt động chất vấn, như: kỹ năng nghiên cứu tài liệu, thu thập thông tin, tiếp xúc cử tri, giám sát tại kỳ họp, giám sát thường xuyên, thẩm tra, chất vấn, phản biện…

Sáu là, tuyên truyền, phổ biến pháp luật để các cấp, các ngành và toàn xã hội nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vai trò, vị trí, quyền hạn trách nhiệm của Quốc hội và ĐBQH. Đây cũng là cách tạo ra áp lực của dư luận xã hội đối với ĐBQH, buộc mỗi đại biểu phải hoạt động tốt hơn, có trách nhiệm hơn trước xã hội và cử tri. Đồng thời, mỗi ĐBQH phải xác định đúng vị trí, vai trò và nhiệm vụ là “người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân”. Quốc hội và cử tri cần tăng cường giám sát, đánh giá kết quả hoạt động của ĐBQH nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của đại biểu trước cử tri.

Bảy là, cần tăng số lượng ĐBQH chuyên trách lên 50% thậm chí 70% tổng số đại biểu, để các đại biểu dành toàn bộ thời gian của mình cho hoạt động của Quốc hội. Tạo điều kiện thuận lợi về thời gian cho các đại biểu kiêm nhiệm để giúp đại biểu cân đối thời gian thỏa đáng cho trách nhiệm, vai trò của mình. Cần quy định cụ thể thời gian ĐBQH phải dành cho hoạt động dân cử trong từng tháng hoặc quý.

Tám là, để nâng cao kỹ năng chất vấn, ĐBQH cần nắm chắc và bám sát quy trình chất vấn

Chín là, tăng cường công tác thi hành, giám sát việc thực hiện nghị quyết về chất vấn. Việc thực hiện nghị quyết về chất vấn cũng như thực hiện những lời hứa trước cử tri của những người bị chất vấn nhằm giải quyết những bức xúc đặt ra có ý nghĩa quan trọng đối với HĐCV của ĐBQH bởi đó cũng là toàn bộ tâm huyết, trách nhiệm của ĐBQH. Để HĐCV của ĐBQH có hiệu quả, có thể cung cấp thêm những điều kiện, như: đổi mới công tác thông tin phục vụ hoạt động của đại biểu, cần thường xuyên cung cấp đầy đủ tài liệu, nhất là các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, các đạo luật mới được ban hành, các thông tin về tình hình kinh tế – xã hội.

Thực tế đã chứng minh, thông tin có vai trò quan trọng, quyết định chất lượng và hiệu quả công tác chất vấn. Vì vậy, để phục vụ hoạt động chất vấn, mỗi người đại biểu phải chủ động, tích cực nắm bắt thông tin, nắm tình hình thực tiễn để có những cơ sở, số liệu cho chất vấn có chiều sâu và hiệu quả. Các tài liệu, báo cáo thẩm tra của các đoàn giám sát, báo cáo công tác của các cơ quan nhà nước cần chuyển đến đại biểu bảo đảm đúng và đủ thời gian cho đại biểu nghiên cứu, tìm hiểu. Mặt khác, cần nghiên cứu để có một mạng lưới cộng tác viên cho ĐBQH dưới dạng hợp đồng theo công việc.

Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021.
2. Luật Giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
3. Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.
ThS. Nguyễn Đức Giang
Viện Nghiên cứu lập pháp, Quốc hội