Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thi hành pháp luật của vùng văn hoá hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Tiếp cận dưới góc độ khoa học quản lý, công việc tổ chức thi hành pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình là nội dung quan trọng của quản lý nhà nước. Trong quá trình thực hiện nội dung đó, các cơ quan, tổ chức thường chịu sự tác động và chi phối bởi rất nhiều yếu tố. Những yếu tố đó tác động theo nhiều hướng, có cả tích cực và tiêu cực, cả chủ quan và khách quan. Bài viết sẽ trình bày một số yếu tố tác động đến hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật trên cơ sở khảo cứu từ các công trình liên quan.           
Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thi hành pháp luật

Để xác định mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật (HTPL) cần phải gắn những yêu cầu về chất lượng với điều kiện và hoàn cảnh thực tế trong mỗi giai đoạn cụ thể. Có thể đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật qua các tiêu chí cơ bản là: tính toàn diện, đồng bộ, tính thống nhất, tính phù hợp, ngôn ngữ, kỹ thuật xây dựng pháp luật và tính khả thi của HTPL. Đây là những tiêu chí phản ánh mức độ hoàn thiện của pháp luật và là yếu tố tác động trực tiếp đến tổ chức thi hành pháp luật (THPL).

(1) Tính toàn diện, đồng bộ và thống nhất của HTPL

HTPL là công cụ để triển khai tổ chức THPL trong thực tiễn thì HTPL phải có khả năng đáp ứng được đầy đủ nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội trên các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội, các quy định pháp luật phải có khả năng bao quát toàn bộ đời sống xã hội. Điều này đòi hỏi các quan hệ xã hội quan trọng có tính điển hình, phổ biến cần có sự điều chỉnh của pháp luật thì đều có pháp luật điều chỉnh.

Bất kỳ một quy phạm hay văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) nào cũng được tạo ra và tác động không phải trong sự độc lập, riêng rẽ mà trong một tổng thể những mối liên hệ và những sự ràng buộc nhất định. Do vậy, tính toàn diện và đồng bộ của HTPL có ảnh hưởng rất lớn tới tính khả thi và hiệu quả của việc tổ chức THPL. Hệ thống văn bản pháp luật không toàn diện, đồng bộ dẫn đến thiếu quy phạm điều chỉnh; chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy phạm… Bên cạnh đó, HTPL cũng cần bảo đảm tính thống nhất, điều này thể hiện điển hình ở sự không xung đột, không mâu thuẫn, không trùng lặp, chồng chéo trong cả hệ thống cũng như trong từng bộ phận hợp thành của HTPL ở các cấp độ khác nhau, nghĩa là giữa các ngành luật trong HTPL; giữa các chế định pháp luật trong cùng một ngành luật; giữa các quy phạm pháp luật trong một chế định pháp luật cũng phải thống nhất. Điều này đòi hỏi các VBQPPL được ban hành không chỉ bảo đảm sự thống nhất, hài hoà về nội dung mà còn phải bảo đảm tính thứ bậc của mỗi văn bản về giá trị pháp lý của chúng.

(2) Tính phù hợp của HTPL

Sự phù hợp của các VBQPPL với bối cảnh đất nước, đặc điểm chính trị của đất nước, mà quan trọng nhất là phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, với các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế – xã hội là điều kiện quan trọng bảo đảm cho tính khả thi và hiệu quả của quá trình tổ chức THPL.

HTPL đòi hỏi phải phù hợp với phong tục, tập quán, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phù hợp với các giá trị đạo đức, văn hoá cao đẹp của nhân dân các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước. Sự phù hợp của HTPL với đạo đức, văn hóa dân tộc, với thuần phong mỹ tục của đất nước… là điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật nghiêm minh trên cơ sở tự giác của mọi người.

HTPL quốc gia còn phải phù hợp với pháp luật quốc tế. Trong xu hướng hội nhập và hợp tác hiện nay, vấn đề này luôn đòi hỏi phải được chú trọng và trong những giới hạn có thể HTPL quốc gia cần phải phù hợp với các công ước, điều ước và thông lệ quốc tế mà quốc gia đã ký kết hoặc tham gia, trên cơ sở tiếp thu và sử dụng có hiệu quả lý luận, kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của các nước khác trên thế giới.

Tính phù hợp của pháp luật còn ở phương pháp điều chỉnh pháp luật được quy định cho mỗi loại quan hệ xã hội. Việc lựa chọn phương pháp điều chỉnh pháp luật phụ thuộc vào nội dung, tính chất của các quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh và ý muốn chủ quan của cơ quan ban hành VBQPPL, thông qua sự nhận thức, sự tính toán của họ về những lĩnh vực, những vấn đề cần điều chỉnh pháp luật trong mỗi giai đoạn lịch sử của sự phát triển xã hội. Sự lựa chọn phương pháp điều chỉnh pháp luật không đúng, không phù hợp sẽ làm mất đi hoặc giảm đi tính hiệu quả của pháp luật, bởi khi đó sẽ không đạt được mục đích mong muốn hoặc chỉ đạt được ở mức độ thấp.

Tính phù hợp của HTPL là tiền đề căn bản cho quá trình tổ chức thi hành, trong một xã hội phát triển, quy định pháp luật phải bảo đảm sự hài hoà về lợi ích cơ bản của tất cả các lực lượng chủ yếu trong xã hội, cần làm sao cho lợi ích hợp pháp của tầng lớp xã hội này không xung đột với lợi ích của các tầng lớp khác.

(3) Tính khả thi của HTPL

Tính khả thi của HTPL thể hiện ở việc các quy định pháp luật phải được ban hành đúng lúc, kịp thời đáp ứng những nhu cầu mà cuộc sống đang đặt ra, đồng thời phải phù hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành. Pháp luật có chất lượng phải là pháp luật đưa ra được phương án tốt nhất với phương pháp điều chỉnh pháp luật phù hợp nhất để thông qua đó có thể đạt được mục đích mong muốn trong những điều kiện kinh tế – xã hội hiện tại.

Mức độ hoàn thiện của HTPL là một trong những cơ sở để bảo đảm cho việc thực hiện và áp dụng pháp luật đạt được kết quả cao trong thực tiễn, đồng thời cho phép dự báo được khả năng hiện thực hoá các quy định pháp luật trong đời sống xã hội. “Pháp luật được ban hành kịp thời, đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với các quy luật khách quan và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và ở trình độ pháp lý cao: rõ ràng, chính xác và một nghĩa thì tạo cơ sở cho điều chỉnh và tác động pháp luật đạt được kết quả cao và ngược lại”.

* Kỹ thuật lập pháp của cơ quan ban hành pháp luật. Hệ thống văn bản pháp luật chính là sản phẩm để đánh giá năng lực lập pháp của chủ thể có thẩm quyền. Sản phẩm đó không chỉ đáp ứng cả hình thức và nội dung mà còn bảo đảm tính thực tiễn cao, như: ngoài xác định chính xác, khoa học cơ cấu của HTPL phù hợp với các điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước; ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu, bảo đảm tính cô đọng, lôgíc và một nghĩa, các thuật ngữ chuyên môn cần xác định rõ nội dung đều được giải thích trong văn bản thì văn phong cần trong sáng, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực hiện, phù hợp với khả năng nhận thức của quảng đại quần chúng nhân dân. “Một quy phạm pháp luật sẽ phát huy được hiệu quả cao hơn nếu phù hợp với quan niệm, ý thức hiện có của công dân và ngược lại1. Sự chặt chẽ, rõ ràng, chính xác của các quy phạm pháp luật cũng tránh được những thiếu sót, sơ hở có thể bị lợi dụng trong quá trình tổ chức THPL. Tính hệ thống hóa cao là bảo đảm rất quan trọng cho việc thực hiện pháp luật dễ dàng, thuận lợi và chính xác.

Vùng văn hóa và những yếu tố đặc trưng

Vùng văn hóa là một không gian văn hóa nhất định, được tạo thành bởi các đơn vị dân cư trên một phạm vi địa lý của một hay nhiều tộc người, sáng tạo ra một hệ thống các dạng thức văn hóa mang đậm sắc thái tâm lý cộng đồng, thể hiện trong môi trường xã hội nhân văn thông qua các hình thức ứng xử của con người với tự nhiên, xã hội và ứng xử với nhau trên một tiến trình lịch sử phát triển lâu dài. Do vậy, trong vùng văn hóa có những tương đồng về hoàn cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống… ở đó từ lâu đã có những mối quan hệ về nguồn gốc và lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế – xã hội, giữa các cộng đồng cùng địa vực đã diễn ra những mối giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại, nên trong vùng đã hình thành những đặc trưng chung, thể hiện trong sinh hoạt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân, có thể phân biệt với vùng văn hóa khác.

Nước ta có 54 dân tộc anh em. Hầu như mỗi dân tộc đều có nét văn hóa riêng. Dân tộc Kinh, tức người Việt, chiếm đa số, sống trải dài từ Bắc đến Nam và rải đều khắp cả nước. Vì vậy, luôn có sự giao thoa văn hóa giữa dân tộc Kinh với các dân tộc hoặc các nhóm dân tộc khác nhau.

Mỗi vùng miền lại có những nét văn hóa rất đặc trưng được thể hiện qua giọng nói, tính cách, qua cách ứng xử, từ đó tạo nên sự phong phú và nét độc đáo của văn hóa Việt. Chính sách nhất quán của Nhà nước là bảo vệ văn hóa dân tộc. Không chỉ bảo vệ văn hóa từng dân tộc mà cũng cần bảo vệ những nét đặc trưng của văn hóa từng vùng miền. Không phải để phân biệt đối xử mà là không làm xáo trộn nếp sống, nếp nghĩ, nết ăn, nết ở của người dân bản địa.

Đất nước ta hiện nay đã bước vào giai đoạn phát triển mới, tiềm lực quốc gia được tăng cường, vị thế chính trị ngày càng được củng cố trên trường quốc tế. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển đó, hoạt động tổ chức THPL chịu sự tác động rất lớn từ những yếu tố mang tính chất vùng miền rất rõ rệt. Điển hình có thể nhắc đến 2 yếu tố: (1) Yếu tố về môi trường sinh thái – tự nhiên mà từ đó sinh ra hoặc đặt ra các quy định, cách thức cư trú, canh tác, đấu tranh sinh tồn và phát triển. (2) Yếu tố chứa đựng các hình thức biểu hiện văn hóa của con người, tạo ra cung cách nhận thức – hoạt động riêng, tạo ra nếp sống, phong tục tập quán, văn học nghệ thuật, ngôn ngữ và các quan hệ giao lưu kinh tế – văn hóa… giữa nội bộ cộng đồng hay với cư dân của các vùng đất/địa phương khác.

Theo phân vùng văn hóa, Việt Nam bao gồm 6 vùng văn hóa đặc thù: vùng văn hóa Tây Bắc; vùng văn hóa Việt Bắc; vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ; vùng văn hóa Trường Sơn- Tây Nguyên; vùng văn hóa Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung; vùng văn hóa Nam Bộ.

Mỗi vùng văn hóa có nét đặc trưng văn hóa của vùng đó thể hiện qua giọng nói, cách nghĩ, cách làm việc, cách ăn uống, cách giao tiếp, cách bày tỏ thái độ… Trang phục thì có thể giống nhau, nhưng tính chất vùng miền thì khó có thể thay đổi được, mỗi vùng đều có nét đặc sắc riêng.

Một số yếu tố đặc trưng của địa phương tác động đến tổ chức THPL, cụ thể:

Thứ nhất, điều kiện địa lýĐây là một trong những yếu tố căn bản tạo nên ranh giới cũng như sự kết nối, giao thoa giữa các vùng miền. Cho đến nay, dù phân vùng theo văn hóa, kinh tế hay địa lý thì các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu vẫn dựa trên đặc điểm địa hình cơ bản như: đặc trưng đồi núi, dân cư tập trung ở các vùng đồi núi; đặc trưng sông ngòi, dân cư sinh sống và duy trì đời sống quanh khu vực sông ngòi; đặc trưng đồng bằng, dân cư phát triển và gắn bó với địa hình đồng bằng. Điều kiện địa lý gắn với nếp sống, nếp sinh hoạt, phong tục tập quán tạo ra những đặc thù khác nhau dẫn đến việc tổ chức THPL sẽ có những thuận lợi và khó khăn khác nhau. Đặc biệt, vùng sâu, vùng xa, điều kiện địa hình hiểm trở, khắc nghiệt, việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và THPL sẽ không như vùng đồng bằng. Do vậy, việc xây dựng HTPL cũng phải lưu ý đến những yếu tố vùng miền để tạo thuận lợi cho việc tổ chức THPL.

Thứ hai, yếu tố kinh tế. Khi nền kinh tế của Việt Nam vận hành theo cơ chế thị trường, với đặc thù vùng, nhiều địa phương đã tận dụng cơ hội để xây dựng và phát triển các sản phẩm kinh tế độc lập, phát huy thế mạnh của địa phương. Trong xu thế phát triển đó, không thể phủ nhận rằng nền kinh tế thị trường đã tác động tích cực đến tiềm năng phát triển vùng đồng bào các dân tộc, tạo ra cơ hội cho đồng bào chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sản xuất. Tuy nhiên, điều kiện sống của người dân các vùng cao sẽ thấp hơn điều kiện sống của người dân các vùng đồng bằng, việc tiếp cận với HTPL, với khoa học công nghệ, với cơ chế thị trường, với các mô hình phát triển kinh tế tiên tiến sẽ khó khăn hơn và như vậy, việc thực thi pháp luật cũng thiếu đi những điều kiện vật chất để thực hiện.

Thứ ba, bản sắc văn hóa của nhiều dân tộc. Đây cũng là yếu tố chi phối không nhỏ tới tổ chức THPL. Mặc dù nhiều bài viết báo động về tình trạng bản sắc văn hóa của một số dân tộc thiểu số đang đứng trước nguy cơ mai một, bị đồng hóa, nhất là ở các cộng đồng vùng nghèo đói dưới tác động của đời sống kinh tế – xã hội hiện đại, sự xâm thực văn hóa, xâm nhập và biến đổi tôn giáo – tín ngưỡng diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sức bảo vệ trước dòng chảy văn hóa của một số cộng đồng dân tộc thiểu số trở nên suy yếu trước tác động của dòng chảy phát triển.

Điều này tạo ra một áp lực lớn cho quá trình tổ chức THPL, khi mà sự vận động của văn hóa kéo theo sự thay đổi những giá trị cốt lõi trong đời sống người dân. Việc tổ chức THPL cũng vì thế mà gặp những rào cản lớn của do sự tác động này: cấu trúc xã hội truyền thống bị biến đổi; nhiều tổ chức quản lý làng, bản cùng với một số giá trị sở hữu truyền thống gắn với các cộng đồng không gian văn hóa bị phá vỡ do tác động ảnh hưởng của chính sách phát triển; môi trường sống như rừng, đất đai, nguồn nước bị biến đổi và thu hẹp, dẫn đến sinh kế và việc làm của người dân trở nên khó khăn hơn, gây xung đột về quản lý tài nguyên ở một số nơi; tình trạng lao động di cư bất hợp pháp trở nên phổ biến và có thể ở mức báo động.

Thứ tư, bộ máy hành chính địa phương và chất lượng lãnh đạo ở các vùng miền. Trong quá trình xây dựng tổ chức bộ máy quản lý nhà nước ở địa phương, số lượng nhân sự được rèn luyện, trưởng thành và giữ vị trí chủ chốt ở chính quyền địa phương các cấp phần lớn là người địa phương, họ là những người hiểu, thấm và cảm được con người, văn hóa, môi trường và những yếu tố đặc thù của địa phương và họ cũng chính là những người bị chi phối nhiều nhất bởi những yếu tố đó trong quá trình tổ chức THPL.

Một số vùng miền được đánh giá là yếu cả về tiêu chí phát triển, phương diện tài chính, kỹ thuật hành chính. Các hoạt động dịch vụ công cộng cũng như quản lý công bị sắp đặt thiên lệch do thiếu kiến thức và kỹ năng. Do vậy, khả năng trợ giúp ít tương ứng với yêu cầu cho việc thực hiện các chương trình phát triển. Sự chậm trễ của những quyết định hành chính cũng làm giảm khả năng và kết quả thực thi. Ở một khía cạnh khác, các tổ chức làng xã như hợp tác xã, các tổ chức xã hội còn thiếu khả năng tổ chức chặt chẽ hoặc còn mang tính hình thức, chưa có khả năng đáp ứng và hoàn thành các yêu cầu về hoạt động phát triển ở các cộng đồng. Điều này dẫn tới việc kiểm soát xã hội có những khó khăn hơn.

Thứ năm, quá trình hội nhập và xu hướng toàn cầu hóa. Mỗi một vùng miền trong quá trình hội nhập sẽ chịu những vấn đề tác động và những ảnh hưởng khác nhau của thế giới, khu vực và xu thế phát triển cũng như sự tăng trư­ởng kinh tế toàn cầu và khu vực; vấn đề tôn giáo, sắc tộc và xung đột vũ trang chi phối các vấn đề quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao; quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội ở nhiều quốc gia và thế giới; sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin… đã tác động ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm lý cá nhân, tâm lý, tình cảm cộng đồng dân tộc, làm nảy sinh những vấn đề xã hội đòi hỏi cần có sự quản lý, định hướng tốt.

Các nguồn lực phục vụ cho tổ chức thi hành pháp luật

(1) Nguồn tài chính công và hệ thống tài sản công

Tài chính công là tổng thể các hoạt động thu chi bằng tiền do nhà nước tiến hành, phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ công, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của nhà nước và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích chung của toàn xã hội.

Những bảo đảm về mặt tài chính và điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động tổ chức THPL phụ thuộc một phần vào nhu cầu quản lý, nhưng chủ yếu là trình độ phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn. Việc đầu tư về tài chính, trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo đảm cho sự vận hành của bộ máy và hoạt động của chế độ công vụ, công chức vừa là điều kiện, vừa là một trong những tiêu chí chủ yếu đánh giá hiệu quả của nền hành chính (xét về hiệu quả chi tiêu công). Có một thực tế là, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đã thấy được tầm quan trọng của yếu tố kinh tế mà cụ thể là nguồn tài chính công đang tác động không nhỏ tới quá trình tổ chức THPL. Đây được xem là “yếu tố bên trong” gắn liền với cơ cấu tổ chức và quá trình vận hành của hệ thống tổ chức bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở trong quá trình tổ chức THPL.

(2) Nguồn lực khoa học, công nghệ, thông tin

Sự phát triển của khoa học, công nghệ và quá trình hội nhập quốc tế đang tạo ra những thay đổi trong tư duy và phương pháp tổ chức quản lý trên quy mô toàn xã hội. Việc áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ trong tổ chức THPL giúp thu hẹp khoảng cách không gian, rút ngắn thời gian, giảm chi phí thực tế và nhờ vậy trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành. Có thể nhận thấy một số tác động của khoa học, công nghệ và sự truyền tải thông tin kịp thời đã phục vụ vô cùng tích cực cho quá trình tổ chức THPL, như: xây dựng mạng lưới tuyên truyền pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trên internet; các chế phẩm uy tín được nghiên cứu, bào chế nhằm làm giảm sự kích thích hệ thần kinh giúp kiềm chế được hành vi bạo lực; các thiết bị báo động tình trạng bạo lực và nguy cơ bạo lực.

Quá trình hội nhập quốc tế giúp các quốc gia xích lại gần nhau, các mối quan hệ có tính chất liên quốc gia dần hình thành, quá trình tổ chức THPL bị chi phối bởi các điều ước quốc tế, các hiệp ước song phương, đa phương liên quan đến những quan hệ dân sự mà ở đây là quan hệ gia đình để tránh những xung đột pháp luật xảy ra, gây khó khăn cho quá trình tổ chức THPL. Hội nhập quốc tế bên cạnh những thuận lợi về giao lưu, học hỏi kinh nghiệm trong phòng, chống bạo lực gia đình là những thách thức từ việc giao thoa văn hóa giữa các vùng miền, giữa các quốc gia, khu vực. Vì vậy, hội nhập quốc tế càng được đẩy nhanh thì áp lực về quá trình hiện đại hóa nền hành chính, hiện đại hóa tổ chức THPL càng lớn. Tuy nhiên, đây cũng là một tất yếu trong tiến trình pháp triển và điều này đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức được trao quyền tổ chức THPL phải nỗ lực nâng cao năng lực, trình độ của mình.

Hoạt động quản lý của Nhà nước thể hiện trên 3 khía cạnh cơ bản, đó là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Cả 3 hoạt động này đều cần được vận hành tốt để góp phần quan trọng vào việc duy trì trật tự, kỷ cương của nhà nước và xã hội.

Nhà nước pháp quyền XHCN mà Đảng và Nhà nước ta đang xây dựng là Nhà nước được xây dựng và hoạt động trên cơ sở pháp luật, là Nhà nước trong đó pháp luật được đặt lên hàng đầu, mọi quan hệ xã hội đều phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Điều đó có nghĩa là,các chủ thể trong xã hội đều cần phải coi pháp luật là thước đo hành vi xử sự, là tiêu chí đánh giá hành vi của con người, muốn vậy cần phải nâng cao nhận thức để có sự hiểu biết nhất định về pháp luật, có tình cảm đối với pháp luật, từ đó mới có xử sự hợp lý khi tham gia các quan hệ xã hội. Như vậy, để pháp luật vận động song hành cùng các quá trình xã hội, đòi hỏi mọi người dân đều phải không ngừng nâng cao nhận thức về pháp luật. Đây là nhân tố tích cực góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tổ chức THPL trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.

Chú thích:
1. Nguyễn Minh Đoan: “Nâng cao hiệu quả THPL”; Lê Thành Long: “Các quan niệm về THPL từ khảo sát thực tiễn và nghiên cứu xây dựng đề án triển khai công tác theo dõi THPL”. Hội thảo khoa học: “Nâng cao hiệu quả THPL của các cơ quan nhà nước đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN”, Hà Nội, tháng 4/2010.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương, (khóa XIvề xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
2. Phạm Thị Bình. Tác động của kinh tế thị trường đến chức năng gia đình ở Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2020.
3. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Báo cáo điều tra thực trạng bạo lực gia đình, đề xuất giải pháp có tính đột phá nhằm giảm thiểu bạo lực gia đình trong giai đoạn 2018-2020, Hà Nội, 2020.
4. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Văn bản quản lý nhà nước về gia đình và công tác gia đình ở Việt Nam hiện nay. H. NXB Chính trị quốc gia, 2013.
5. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay. H. NXB Khoa học xã hội, 2015.
6. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Kỷ yếu Hội thảo khoa học 10 năm thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Hà Nội, 2018.
7. Hoàng Thế LiênĐề tài khoa học cấp Bộ“Cơ chế tổ chức THPL: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”Bộ Tư pháp, 2018.
ThS. Cung Thúy Quỳnh
Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, thành phố Hà Nội