Nâng cao khả năng thích ứng của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong bối cảnh mới

(Quanlynhanuoc.vn) – Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay chiếm tỷ lệ 97% tổng số doanh nghiệp, đóng góp tới 45% vào GDP, 31% vào tổng thu ngân sách nhà nước và thu hút khoảng 5 triệu lao động1 góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, 3 năm gần đây đại dịch Covid-19 gây ra nhiều biến động ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của tất cả các quốc gia cũng như Việt Nam, đặc biệt là của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vì vậy, cần có những giải pháp ể phát triển kinh tế – xã hội cũng như nâng cao khả năng phát triển nhanh và bền vững của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bối cảnh mới.
Ảnh minh họa (internet)
Đặt vấn đề

Trong thời gian qua, trước sự biến động khó lường, phức tạp, nhiều diễn biến chưa từng có trong tiền lệ, như: tác động bởi đại dịch Covid-19, xung đột quân sự giữa Nga và U-crai-na; giá xăng dầu và nguyên, nhiên vật liệu tăng; lạm phát tăng cao ở nhiều quốc gia gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các doanh nghiệp (DN) nói chung và các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) nói riêng. Do đó, các DN cần phải chủ động dự báo, đề ra các giải pháp trọng tâm ứng phó trước những biến động mới, nâng cao khả năng thích ứng của DNNVV.

Đánh giá tình hình kinh tế thế giới tác động đến các doanh nghiệp nhỏ và vừaViệt Nam hiện nay

Đại dịch Covid-19 diễn ra vào cuối năm 2019 trên phạm vi toàn thế giới, gây tác động tiêu cực chưa từng có đến nền kinh tế thế giới và Việt Nam, theo đó là cuộc xung đột vũ trang giữa Nga và U-crai-na hiện vẫn đang tiếp tục diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến giá cả các loại hàng hóa, tăng trưởng kinh tế thấp…, điều này tác động đến kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động của các DNNVV nói riêng ở một số mặt.

Quý I/2022, giá xăng dầu trong nước tăng 48,8% gây áp lực lớn lên chi phí sản xuất, ảnh hưởng đến sự phục hồi của nền kinh tế. Cụ thể, khi giá dầu tăng lên mức 100 USD/thùng, tăng trưởng kinh tế năm 2022 giảm 0,12%, tăng lạm phát 0,49 điểm so với kịch bản cơ sở. Đối với các chỉ số vĩ mô khác, lạm phát năm 2022 tăng 0,49 điểm phần trăm so với kịch bản cơ sở2.

Sức ép lạm pháp toàn cầu dự báo sẽ tiếp tục tăng cao và sẽ kéo dài trong năm 2022 do nhiều nguyên nhân, như: giá năng lượng và giá trị lương thực, thực phẩm tăng cao; các chính sách hỗ trợ như giảm thuế, phí… hết hiệu lực, dẫn đến giá cả tăng trở lại. Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo lạm phát năm 2022 được dự báo tăng 6,6% ở các nền kinh tế phát triển và 9,5% ở thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển, tăng lần lượt là 0,9 và 0,8 điểm phần trăm và dự kiến sẽ còn tăng cao hơn nữa3, từ đó, gây áp lực lên chi phí sản xuất trong nước, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phục hồi của nền kinh tế.

Mặt khác, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã quyết định nâng lãi suất cơ bản thêm 0,75 điểm phần trăm (75 điểm cơ bản) lần thứ 3 liên tiếp và là lần tăng lãi suất thứ 5 trong năm nay. Qua đó, biên độ lãi suất cơ bản được nâng lên trong khoảng từ 3 – 3,25%, cao nhất tính từ tháng 01/20084. Việc tăng lãi suất này tác động trực tiếp đến kinh tế – tài chính Việt Nam (mặc dù không nhiều), song, tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng từ ngày 16/3/2022 đến nay đã tăng 0,36%, do vậy khiến một số tổ chức tín dụng tăng lãi suất huy động từ 0,3 – 0,5% tùy theo kỳ hạn5.

Việc FED tiếp tục tăng lãi suất trong các tháng tiếp theo sẽ có những tác động rõ nét lên kinh tế tài chính thể hiện trên 4 phương diện: (1) Mặt bằng lãi suất toàn cầu tăng có thể khiến kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại, làm giảm sức cầu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam; chi phí đi vay của các DN và người dân tăng lên, nhu cầu hàng hóa – dịch vụ giảm, từ đó, giảm nhu cầu xuất khẩu, gây khó khăn cho các DNNVV khi tiếp cận các thị trường quốc tế. (2) Việc FED tăng lãi suất sẽ tạo sức ép lớn hơn lên tỷ giá USD/VND, điều đó khiến dự trữ ngoại hối tăng lên; (3) Chi phí vay vốn mới và nghĩa vụ trả nợ bằng đồng USD tăng; (4) Tác động đối với các dòng vốn đầu tư, nhất là đầu tư gián tiếp nước ngoài. Điều này tác động lớn đến kinh tế Việt Nam nói chung và với các DN nói riêng. Vì vậy, cần tăng cường xây dựng các kịch bản, giải pháp ứng phó với biến động của tình hình thế giới, nâng cao khả năng thích ứng, “dựa thế – tìm đường” vượt qua nguy cơ khủng hoảng có thể xảy ra.

Thực trạng phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tính đến ngày 31/12/2021, cả nước có 857.551 DN đang hoạt động, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm 2020, tăng 16,7% so với bình quân giai đoạn 2017 – 2020, trong đó DN ngành Nông – lâm – thủy sản (chiếm 1,4%); Công nghiệp và Xây dựng (chiếm 31,5%); dịch vụ (chiếm 67,1%)6.

Trong 7 tháng đầu năm 2022 số DN gia nhập và tái nhập thị trường trên 130 nghìn DN, tăng 26,8% so với cùng kỳ năm 2021, gấp 1,4 lần số DN rút lui khỏi thị trường; tổng số vốn đăng ký đạt hơn 3,3 triệu tỷ đồng, tăng hơn 37% so với cùng kỳ năm 2021; có 15/17 ngành có số lượng DN thành lập mới, tăng so với cùng kỳ, trong đó lĩnh vực du lịch; dịch vụ lưu trú và ăn uống, tăng 38,6%; dịch vụ việc làm, tăng 33,3% và hoạt động dịch vụ khác, tăng 31,7%. Các DN thành lập mới chủ yếu có quy mô nhỏ (từ 0 – 10 tỷ đồng), với 80.107 DN, chiếm 89,6%, tăng 20,2% so với cùng kỳ năm 20217.

Từ đầu năm 2022 đến nay, khi dịch bệnh được kiểm soát, DNNVV đã dần được phục hồi, thậm chí một số ngành có mức độ phục hồi ấn tượng, như: du lịch, hàng không, giao thông – vận tải… đã phục hồi 75 – 85% so với trước đại dịch Covid-19. Thị trường nội địa ngành Du lịch gần như đã phục hồi 100%, đặc biệt là sau bùng nổ của du lịch nội địa trong quý II/2022 do nhu cầu du lịch của người dân tăng cao trong dịp hè. Thị trường ngành Giao thông – Vận tải, Hàng không nội địa đã bắt đầu hồi phục có thời điểm gần đạt các chỉ số cơ bản về khai thác hành khách và hàng hóa trước đại dịch. Trong 6 tháng đầu năm 2022, các hãng hàng không đã tổ chức khai thác hơn 140 nghìn chuyến bay, tăng 31% so với cùng kỳ năm 2021, phục hồi gần 85% so với thời điểm 6 tháng đầu năm 2019. Ngành Công nghiệp cũng được phục hồi tích cực, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng cao trong 6 tháng liên tiếp: tháng 2 tăng 9,2%; tháng 4 tăng 10,7 %; tháng 5 tăng 9,5%; tháng 6 tăng 9,1% và tháng 7 tăng khoảng 11,2%8.

Một số ngành có mức phục hồi nhanh, doanh thu tăng cao điển hình như: ngành xây dựng có doanh số và sản lượng trong 6 tháng đầu năm 2022, tăng 300% so với cùng kỳ năm 2021. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 7 tháng đầu năm, ước tăng 16% so với cùng kỳ năm 2021. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, ước tăng 37,5%, du lịch lữ hành tăng 94,4% và một số tỉnh có sức tăng ấn tượng, như: Khánh Hòa tăng hơn 600%, Cần Thơ tăng 200% và Hà Nội tăng 130%, trong khi khách quốc tế đến Việt Nam đạt 602 nghìn lượt, gấp 6,8 lần so với cùng kỳ năm 20219.

Về các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, như: điện tử, dệt may, da giày, nông – lâm – thủy sản tiếp tục là điểm sáng cho nền kinh tế. 7 tháng đầu năm: kim ngạch xuất khẩu sản phẩm điện tử máy tính và linh kiện, ước đạt: 31,7 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ; điện thoại và linh kiện ước đạt: 33,7 tỷ USD, tăng 13,1%; dệt may đã xuất khẩu: 22,1 tỷ USD, tăng 19,8%; giày dép: 14,1 tỷ USD, tăng 19,6%; gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu đạt: 9,7 tỷ USD; thủy sản ước đạt: 6,6 tỷ USD, tăng 32,9%; nông sản Việt tiếp tục có nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch tỷ USD, như: cà phê, cao su, điều, rau quả, gạo…10.

Mặc dù sau đại dịch Covid-19, khu vực DN đã có sự phục hồi tích cực, nhưng trên thực tế vẫn còn tồn tại một số hạn chế, một số DN thành lập mới đã trở lại hoạt động nhưng tỷ lệ DN giải thể, dừng hoạt động còn ở mức cao. Năm 2021, cả nước có 54.960 DN tạm dừng kinh doanh, tăng 18% so với năm 2020, tăng 90,8% so với giai đoạn 2016 – 2020. Số lượng DN giải thể cả nước có 16.741 DN, giảm 4,1% so với năm 2020, tăng 11,3% so với giai đoạn 2016 – 2020; số lượng DN giải thể bằng 14,3% so với số lượng DN thành lập mới. 7 tháng đầu năm 2022 đã có 94.575 DN rút lui khỏi thị trường, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó phần lớn các DN lựa chọn hình thức tạm ngừng kinh doanh trong ngắn hạn (56.014 DN, chiếm 59,2% tổng số DN rút lui khỏi thị trường)11.

Bên cạnh đó, năng lực khoa học – công nghệ của các DNNVV còn hạn chế, chưa mạnh dạn đầu tư phát triển khoa học – công nghệ, nhất là công nghệ cốt lõi, công nghệ tiên phong. Hiện nay, chỉ có 21% DNNVV tham gia một phần chuỗi giá trị toàn cầu, 14% thành công trong việc liên kết với các đối tác nước ngoài, trong khi số DN FDI đầu tư tại Việt Nam là rất lớn12.

Nhiều DNNVV thiếu tầm nhìn chiến lược dài hạn, chưa hoàn thành trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Nhà nước, cộng đồng và xã hội, nhất là nghĩa vụ nộp thuế, các quy chuẩn về môi trường trong sản xuất, chế biến thủy sản; tiêu chuẩn về mã vùng trồng trọt theo Luật Trồng trọt năm 2018; quy chuẩn về nước thải công nghiệp, chống gian lận thương mại… Ngoài ra, tính liên kết, hợp tác giữa các DN còn mang tính hình thức, chưa thực sự tạo thành khối liên kết cùng phát triển. Hơn nữa, việc tiếp cận huy động vốn phục vụ sản xuất – kinh doanh của DN gặp nhiều khó khăn. Theo khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), có tới 47% DNNVV gặp khó khăn khi tiếp cận vốn, 4% DNNVV phải huy động vốn từ các nguồn tín dụng khác dẫn đến thách thức cho việc bảo đảm năng lực sản xuất và cung ứng hàng hóa13.

Một số giải pháp nâng cao khả năng thích ứng của doanh nghiệp nhỏ và vừa thời gian tới

Để tháo gỡ những khó khăn cho DN, hỗ trợ DNNVV vượt qua những rào cản, thách thức, khơi thông điểm nghẽn, tạo đà phục hồi phát triển nhanh, bền vững, nâng cao khả năng thích ứng cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, các cơ quan bộ, ngành, địa phương tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách thực chất thủ tục hành chính.

Các bộ, ngành, địa phương, cần thực hiện tích hợp các văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch, dễ tra cứu, dễ hiểu và dễ tiếp cận; chủ động hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền cắt giảm hoặc đơn giản hóa các quy định về trình tự, thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh do cấp mình quản lý để tháo gỡ khó khăn cho DNNVV.

Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành các quy hoạch thuộc lĩnh vực, địa bàn quản lý làm cơ sở cho DNNVV xây dựng kế hoạch, chiến lược đầu tư, sản xuất – kinh doanh có tầm nhìn dài hạn. Tổ chức đối thoại định kỳ giữa các bộ, ngành, chính quyền địa phương và DNNVV, đánh giá thực chất quá  trình xử lý kiến nghị của cộng đồng DN. Nâng cao hiệu quả đầu tư công, khuyến khích đầu tư của các DN góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững.

Tiếp tục thực hiện Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV và đưa ra giải pháp tháo gỡ. Đồng thời, đưa ra các giải pháp đáp ứng nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất – kinh doanh của các DN thuộc ngành, lĩnh vực ưu tiên; đẩy mạnh triển khai thực hiện Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 của Chính phủ về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của DN, hợp tác xã, hộ kinh doanh.

Bộ Tài chính, nghiên cứu đề xuất các giải pháp, chính sách phù hợp với hoạt động phát hành trái phiếu DN nhằm bảo đảm thị trường hoạt động hiệu quả là kênh dẫn vốn trung và dài hạn của nền kinh tế; có biện pháp tăng cường kiểm tra, giám sát các DNNVV có dấu hiệu sử dụng vốn sai mục đích; rà soát, nâng cao các điều kiện về nhà đầu tư chứng khoán cá nhân chuyên nghiệp, các tổ chức kiểm toán; chủ động xử lý các tình huống rủi ro liên quan đến thị trường trái phiếu DN tránh ảnh hưởng đến hệ thống tài chính và gây bất ổn nền kinh tế.

Thực hiện cải cách quản lý thuế đối với các hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh, đặc biệt, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán nhằm giảm dần sự khác biệt giữa chính sách thuế của DN và hộ kinh doanh.

Tiếp tục phối hợp với các bộ, hiệp hội, địa phương đẩy nhanh triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ chuyển đổi số trong DN, hợp tác xã, hộ kinh doanh giai đoạn 2021 – 2025, kế hoạch, đề án hỗ trợ DNNVV nâng cao năng lực để tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng. Đẩy nhanh xây dựng và đưa vào vận hành Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia để sớm hỗ trợ DNNVV khởi nghiệp sáng tạo.

Sớm hoàn thiện, khai thác hiệu quả Cổng Thông tin quốc gia về DN để tổng hợp, chia sẻ miễn phí thông tin về các chương trình, chính sách, mạng lưới tư vấn viên hỗ trợ DNNVV để DN, người dân tiếp cận nhanh chóng, dễ dàng, khoa học.

Hai là, tăng cường hiệu quả triển khai các chính sách và nguồn lực hỗ trợ DN nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động hội nhập quốc tế.

Đẩy mạnh thực hiện Luật Hỗ trợ DNNVV với trọng tâm hỗ trợ DN chuyển đổi từ hộ kinh doanh, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tham gia cụm liên kết chuỗi giá trị; triển khai Chương trình hỗ trợ DN khu vực tư nhân kinh doanh bền vững giai đoạn 2022 – 2025, trong đó hỗ trợ các DN ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh doanh bao trùm và kinh doanh bền vững.

Tiếp tục phát triển chuỗi liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu và truy xuất nguồn gốc đối với các hàng hóa nông sản, thực phẩm thiết yếu, tận dụng sức mua của thị trường nội địa; nghiên cứu đề xuất phát triển vùng nguyên liệu trong nước phục vụ sản xuất nông nghiệp để thay thế nguyên liệu nhập khẩu nhằm chủ động nguồn cung và giá.

 Ba là, nâng cao khả năng thích ứng của DNNVV.

Các DN chủ động cắt giảm chi phí, tăng cường cho nghiên cứu các mô hình kinh doanh mới. Các DN chủ động cắt giảm những chi phí không cần thiết, tạm dừng hoạt động một số bộ phận để tối đa chi phí cho DN tìm kiếm giải pháp, hướng đi mới một cách phù hợp trước những biến động của tình hình thế giới. Đặc biệt, cần tìm hướng đi mới, thúc đẩy sản xuất – kinh doanh, tìm kiếm thị trường, sản phẩm dịch vụ mới; tổ chức lại nhân sự cho phù hợp với các mô hình đã lựa chọn. Mặt khác, DNNVV nhanh chóng đổi mới và cải tiến công nghệ sản xuất, đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý và hoạt động. Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ; đồng thời, chủ động tìm kiếm thị trường quốc tế về nhập khẩu nguyên, nhiên liệu và linh kiện sản xuất, giảm sự phụ thuộc nguyên liệu nhập từ thị trường một nước; chủ động thiết lập cơ chế phòng, ngừa rủi ro thị trường quốc tế hiệu quả – một “mặt trận phòng ngự” trước khủng hoảng kép, mặt trận này nằm tập trung ở hai chiến tuyến “cung” và “cầu”.

Kết luận

DNNVV là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế, đóng góp ngày càng lớn trong phát triển kinh tế – xã hội. Để nâng cao khả năng thích ứng trong bối cảnh mới cần phải có sự vào cuộc của Nhà nước, sự nỗ lực vươn lên của chính DN và sự giúp đỡ của các hiệp hội để DNNVV ngày càng phát triển.

Chú thích:
1. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa gắn với tiêu chí tăng trưởng xanh. https://www.mpi.gov.vn, ngày 20/12/2019.
2, 6, 7, 8, 10, 11, 12. Báo cáo số 5617/BC-BKHĐT ngày 10/8/2022 về tình hình phát triển doanh nghiệp 7 tháng đầu năm 2022 và một số giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp trong thời gian tới.
3. Tổng Cục Thống kê. Tổng quan dự báo tình hình kinh tế thế giới Quý III và cả năm 2022. https://www.gso.gov.vn, ngày 29/9/2022.
4. Lãi suất của FED sẽ đạt đỉnh 5% vào tháng 3 sang năm? https://vov.vn, truy cập ngày 01/11/2022.
5. Lãi suất và tỷ giá sẽ diễn biến thế nào? https://hanoimoi.com.vn, ngày 29/9/2022.
13. 47% doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn. https://vietnamfinance.vn, ngày 20/8/2022.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ ban hành quy định tạm thời thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19.
2. Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 của Chính phủ về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.
ThS. Vũ Thị Tuyết Loan
Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội
ThS. Đoàn Xuân Phúc
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng