Chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của thành phố Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Năm 2022, Hà Nội tiếp tục duy trì vị trí trong nhóm các địa phương dẫn đầu cả nước về FDI1. Sở hữu môi trường đầu tư thông thoáng, chính trị ổn định, kinh tế – xã hội phát triển bền vững, nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng cao, thành phố Hà Nội là một trong những điểm đến hấp dẫn với các nhà đầu tư đến từ nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trong khu vực và trên thế giới.
Trung tâm trung tâm R&D Samsung tại Hà Nội. Ảnh: VGP.
Đặc điểm kinh tế – xã hội và định hướng thu hút FDI của Hà Nội

Tính đến hết năm 2021, dân số của Thủ đô Hà Nội là 8,33 triệu người2, là thành phố đông dân thứ hai của Việt Nam. Hà Nội có lực lượng lao động trẻ, có trình độ ở mức trung bình – khá đáp ứng cho nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, tổng diện tích đất tự nhiên của Hà Nội là không nhiều và được đánh giá là không thuận lợi cho xây dựng các dự án FDI về sản xuất với quy mô lớn, do vậy, nếu cứ tiếp tục thu hút các FDI này sẽ gây ra các hậu quả xấu cho thành phố. Hiện nay, Hà Nội tập trung chủ yếu vào các dự án FDI công nghệ cao, FDI về tài chính… Từ đó, Hà Nội đã đề ra những định hướng phù hợp để thu hút FDI, cụ thể:

Thứ nhất, tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư, chủ động tiếp cận các tập đoàn lớn, các dự án phù hợp với mức độ phát triển kinh tế – xã hội của thành phố. Nâng cao trình độ cán bộ xúc tiến đầu tư, tăng cường khả năng xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước, tận dụng tối đa các hiệp định thương mại của Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới.

Thứ hai, rà soát, xây dựng danh mục kêu gọi FDI phù hợp với quy hoạch, định hướng phát triển ngành, lĩnh vực, địa bàn. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, kết nối chuỗi giá trị, tạo động lực thúc đẩy phát triển ngành, lĩnh vực nhưng vẫn bảo đảm phát triển kinh tế gắn với tăng cường củng cố an ninh, quốc phòng trên địa bàn.

Thứ ba, khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp (DN) trong nước tham gia hợp tác, kết nối với DN đầu tư nước ngoài, nhằm tranh thủ sự hỗ trợ về kỹ năng, trình độ quản trị, nâng cao tay nghề công nhân trong các DN, cải thiện năng lực hấp thụ công nghệ, tiến đến tự chủ công nghệ và tham gia chuỗi giá trị.

Thực trạng chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hà Nội

Tính đến tháng 7/2022, Hà Nội là địa phương đứng thứ 3 cả nước về tổng số vốn đăng ký FDI3, mặc dù năm 2021 bị sụt giảm vốn FDI do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.

Với lợi thế cạnh tranh về môi trường đầu tư thông thoáng, chính trị ổn định, kinh tế  – xã hội phát triển bền vững, nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng cao, Thủ đô Hà Nội là một trong những địa phương hấp dẫn với nhà đầu tư nước ngoài. Lũy kế đến hết năm 2021, Hà Nội nằm trong tốp 3 địa phương thu hút FDI nhiều nhất Việt Nam.

Về đối tác đầu tư. Tính đến hết năm 2021, có khoảng 44 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Hà Nội. Trong đó, Hàn Quốc là quốc gia có số dự án được cấp phép nhiều nhất, với 2.440 dự án (chiếm 35%) và Xinh-ga-po có tổng vốn đăng ký đầu tư lớn nhất với 8.925 triệu USD (chiếm 23,8%)4. Đặc biệt, Hà Nội ưu tiên thu hút vốn từ các nước có công nghệ phát triển, như: Xinh-ga-po, Hoa Kỳ, Anh, Ốt-xtrây-li-a (số dự án và tổng vốn đăng ký có xu hướng tăng dần theo các năm).

Về dự án FDI phân theo ngành kinh tế. Hoạt động đầu tư FDI có mặt trên các ngành kinh tế, mặc dù lượng vốn đầu tư khác nhau. Trong đó, bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác có số dự án là nhiều nhất với 1.922 dự án nhưng tổng vốn đăng ký nhiều nhất lại thuộc về hoạt động kinh doanh bất động sản, với 14.359 triệu USD5.

Kết quả trên phản ánh việc thực hiện và ban hành các chính sách thu hút vốn FDI một cách chặt chẽ, thống nhất.

Để đánh giá cảm nhận chính sách về hoạt động thu hút FDI của thành phố Hà Nội, tác giả tiến hành phát triển bảng hỏi nhằm điều tra khảo sát đối với các DN FDI hiện đang hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội. Thời gian điều tra, khảo sát diễn ra từ tháng 9 – 10/2022. Nội dung phiếu điều tra, khảo sát xoay quanh các nội dung thực trạng việc ban hành và thực thi chính sách thu hút FDI của thành phố Hà Nội cũng như cảm nhận của DN về hiệu quả chính sách.

Kết quả điều tra cho thấy, các chính sách được thành phố ban hành được đánh giá khá cao, với 44,4% DN lựa chọn các chính sách này là mức tốt và khá tốt, 38,1% DN lựa chọn các chính sách đang được thực hiện và ban hành là bình thường. Còn lại 12,3% DN đánh giá ở mức không tốt và 5,2% DN đánh giá ở mức rất không tốt.

Qua đây có thể thấy, các nhóm chính sách tác động đến tình hình thu hút FDI của Hà Nội.

Một là, nhóm chính sách liên quan đến luật và thủ tục hành chính.

Sự cần thiết của hành lang pháp lý đối với hoạt động thu hút FDI, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 50/NQ -TW ngày 20/8/2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Thành phố Hà Nội cũng đã có những văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị quyết này để bảo đảm thực hiện đúng, tốt và phù hợp.

UBND thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định số 05/2020/QĐ-UBND ngày 16/3/2020 về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của ban quản lý các khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội. Văn phòng UBND thành phố Hà Nội cũng ban hành Kế hoạch số 32/KH-VP ngày 29/8/2022 về triển khai xây dựng kênh thông tin tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về quy định hành chính của người dân, DN trên ứng dụng Zalo nhằm tiếp nhận phản ánh, kiến nghị và xử lý các vi phạm về quy định hành chính hoặc hành vi, thái độ của cán bộ, công chức. UBND thành phố Hà Nội cũng đã ban hành các chỉ thị: Chỉ thị số 11/CT-UBND ngày 05/6/2020 về việc nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2020; Chỉ thị số 14/CT-UBND ngày 02/6/2021 về việc nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2021; Chỉ thị số 13/CT-UBND về việc nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2022, chứng tỏ thành phố quyết tâm trong việc cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường kinh doanh hợp lý.

Hai là, nhóm chính sách liên quan đến tài chính.

Thời gian qua, Việt Nam liên tục hoàn thiện thể chế, chính sách ưu đãi về tài chính để thu hút và quản lý tốt hơn FDI. Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản, chính sách nhằm thu hút, quản lý FDI tại Việt Nam tiêu biểu như: Luật Đầu tư, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Sử dụng đất phi nông nghiệp…, cùng với các văn bản hướng dẫn về cơ chế, chính sách khuyến khích DN FDI đầu tư vào Việt Nam.

Một trong những vướng mắc nhiều nhất được các DN FDI trên địa bàn thành phố trong bối cảnh dịch Covid-19 là vấn đề thuế. Cục Thuế thành phố Hà Nội đã kịp thời chuyển tải các chính sách, các gói hỗ trợ của Chính phủ, Bộ Tài chính, UBND thành phố Hà Nội đến các DN một cách nhanh chóng, dễ hiểu nhất. Đặc biệt, Cục thuế cũng tích cực, chủ động đối thoại với DN FDI. Các vướng mắc được giải đáp 100%, kịp thời ngay trên website Cục thuế và nhận được nhiều phản hồi tích cực.

Dựa trên cuộc khảo sát của tác giả đối với câu hỏi nhóm các chính sách liên quan đến tài chính của Chính phủ và thành phố Hà Nội khi DN gặp các khó khăn về tài chính, 97 DN đưa ra câu trả lời khá trung lập, tuy nhiên vẫn nghiêng về tích cực nhiều hơn. Có 13,4% số DN được khảo sát chọn cho mức đánh giá rất tốt và cả không tốt, 35,1% đánh giá mức bình thường, 30,9% đánh giá mức tốt – chiếm tỷ lệ cao nhất, và thấp nhất là mức rất không tốt với 7,2%6.

Ba là, chính sách về đất đai.

Pháp luật về quyền tiếp cận đất đai của DN có vốn ĐTNN ở Việt Nam trong thời gian qua đã không ngừng được đổi mới, hoàn thiện và đạt được nhiều kết quả tích cực. Chính phủ đã ban hành một số quy định về miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước trong những trường hợp cụ thể theo Nghị định số 35/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước trong khu kinh tế, khu công nghệ cao; Quyết định số 22/2020/QĐ-TTg ngày 10/8/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc giảm tiền thuê đất của năm 2020 đối với các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 theo Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ; Thông tư số 153/2011/TT-BTC ngày 11/11/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.

Thành phố Hà Nội hiện nay chưa có các văn bản, chính sách cụ thể về chính sách hỗ trợ đất đai cho riêng DN FDI. Tuy nhiên, đã có những hướng dẫn thi hành để các DN FDI có thể cập nhật và thực hiện đúng, nhận các ưu đãi của Chính phủ đối với các vấn đề về đất đai.

Chính quyền Hà Nội đã yêu cầu các cơ quan như: Sở Tài nguyên và Môi trường, Cục Thuế thành phố Hà Nội có những văn bản hướng dẫn DN về các ưu đãi đất đai, đồng thời cập nhật các thông tin mới cho DN nói chung và DN FDI về các ưu đãi trong lĩnh vực đất đai. Điển hình, Cục thuế thành phố Hà Nội có hướng dẫn một số ưu đãi về thuế, đất đai đối với các hoạt động trong lĩnh vực xã hội hóa năm 2014. Đồng thời, yêu cầu Sở Tài nguyên và Môi trường công bố công khai, minh bạch toàn bộ các quy hoạch ngành, quy hoạch phân khu, kế hoạch sử dụng đất theo nhiều hình thức để DN dễ dàng tiếp cận thông tin đầu tư.

Bốn là, chính sách về lao động.

Để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng nhân lực trình độ cao cho các DN FDI, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã tham mưu trình, ban hành một số văn bản, như: Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 06/6/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao; Quyết định số 371/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án Chuyển giao các bộ chương trình; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề; đào tạo các nghề trọng điểm cấp độ khu vực ASEAN, quốc tế giai đoạn 2012 – 2015…, và nhiều thông tư hướng dẫn về liên kết đào tạo; hướng dẫn về hỗ trợ đào tạo tại DN… Và, để hướng đến một thị trường lao động phát triển bền vững, ngày 08/6/2021, UBND thành phố Hà Nội ban hành Kế hoạch số 142/KH-UBND về thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động thành phố Hà Nội đến năm 2030. Theo đó, thành phố đặt mục tiêu tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 75 – 80%, trong đó lao động qua đào tạo nghề có bằng cấp, chứng chỉ đạt 55- 60% vào năm 2025 và đạt trên 60% vào năm 2030 (mỗi năm đào tạo nghề cho 230.000 lượt người; giải quyết việc làm cho ít nhất 160.000 người); tỷ lệ lao động có kỹ năng công nghệ thông tin đạt 80% vào năm 2025 và 90% vào năm 2030…

Như vậy, bằng những nỗ lực của mình thông qua các biện pháp, chính sách, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo của thành phố Hà Nội đã có xu hướng tích cực, tăng dần theo các năm và cũng được đánh giá khá tích cực bởi các DN FDI.

Năm là, chính sách hỗ trợ về đầu tư.

(1) Về hỗ trợ chuyển giao công nghệ.

Việc chuyển giao công nghệ cũng giúp cho các DN FDI trong việc điều hành quản lý công ty. Đơn cử như đại dịch Covid-19 xảy ra trong dịp chủ DN là người nước ngoài về nghỉ Tết Âm lịch, sau đó, do dịch Covid-19 xảy ra và không thể trở lại Việt Nam. Không có giám đốc điều hành, công ty hoạt động cầm chừng, không thực hiện được những đơn hàng lớn và khó. Người lao động trong công ty cũng bị ảnh hưởng vì việc làm ít, thu nhập giảm… Một số DN FDI buộc phải hủy đơn hàng vì quản lý và chuyên gia người nước ngoài chưa quay lại Việt Nam. Song trên thực tế, vẫn có một số DN, tập đoàn FDI khi thành lập công ty, tiến hành làm các thủ tục đầu tư xây dựng nhà xưởng, lắp đặt máy móc dây chuyền sản xuất đã đào tạo và chuyển giao cho người Việt quản lý, sản xuất – kinh doanh. Do vậy, có thể chủ động hơn trong việc giám sát và quản lý.

Chính phủ và chính quyền thành phố Hà Nội đã có những chính sách giúp cho việc chuyển giao công nghệ được nhanh chóng và thuận lợi trong các khâu thủ tục. Ngày 07/10/2019, UBND thành phố Hà Nội đã ban hành Kế hoạch số 222/KH-UBND về triển khai thực hiện Đề án “Thúc đẩy chuyển giao, làm chủ và phát triển công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên giai đoạn đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Mục tiêu của kế hoạch là triển khai đồng bộ, hiệu quả chính sách hỗ trợ chuyển giao, làm chủ và phát triển công nghệ từ nước ngoài vào thành phố Hà Nội, đặc biệt là các công nghệ nguồn, công nghệ cao, công nghệ nền tảng trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên của thành phố. Đối với việc chuyển giao công nghệ cho DN trong nước, dù chính quyền đã có những sự hỗ trợ nhất định về mặt chính sách nhưng các DN FDI vẫn chưa có sự đánh giá cao. Cụ thể, có đến 25,8% DN đánh giá là gặp khó khăn khi chuyển giao công nghệ, 15,5% đánh giá mức rất khó khăn, 32,9% đánh giá ở mức bình thường. Cuối cùng mức dễ và rất dễ chiếm 25,8%7.

(2) Về phát triển và dịch vụ đầu tư.

Chính phủ có chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển đối với dự án FDI đáp ứng một số điều kiện nhất định, tuy nhiên, Hà Nội không chỉ tập trung xây dựng các chính sách ưu đãi dành cho nhà đầu tư, mà còn đẩy mạnh hoàn thiện các khu công nghiệp, nhất là khu công nghệ cao. Đồng thời có những chính sách ưu tiên các dự án FDI ứng dụng công nghệ cao. Hiện nay, Khu công nghệ cao Hòa Lạc đang là điểm đến hấp dẫn đối với nhiều nhà đầu tư lớn quốc tế. Thành phố cũng tiếp tục thực hiện các chính sách ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài để khuyến khích ứng dụng công nghệ cao.

Sáu là, chính sách xúc tiến thu hút vốn đầu tư.

Với mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài theo chiều sâu gắn với mục tiêu phát triển bền vững; ưu tiên những dự án chất lượng, sản phẩm có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao tập trung vào các lĩnh vực: phát triển kết cấu hạ tầng đô thị, xây dựng thành phố thông minh; công nghiệp hỗ trợ sử dụng công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường; các dự án lĩnh vực công nghệ thông tin; nghiên cứu phát triển; du lịch, dịch vụ tài chính, ngân hàng; đào tạo nhân lực; nông nghiệp công nghệ cao, thực phẩm sạch an toàn… Thành phố tiếp cận để nhận đầu tư từ các công ty, tập đoàn trong lĩnh vực công nghệ cao, tăng cường đổi mới và tiếp nhận chuyển giao tri thức từ các DN FDI, nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả trong lĩnh vực công nghệ chế biến, chế tạo trên địa bàn thành phố.

Để đạt được mục tiêu đó, thành phố Hà Nội đã tiến hành công bố danh mục các dự án kêu gọi đầu tư trên các tài liệu, ấn phẩm xúc tiến đầu tư, trên trang thông tin điện tử của thành phố và sở, ngành địa phương; thực hiện duy trì, nâng cao chất lượng trang thông tin điện tử về xúc tiến đầu tư, phát hành bản tin cung cấp thông tin về đầu tư, thương mại, du lịch phục vụ nhu cầu thông tin kinh tế; đổi mới trong công tác xúc tiến đầu tư, gắn kết với xúc tiến thương mại, du lịch cũng như gắn với hoạt động đối ngoại, văn hóa; xác định rõ các thị trường, quốc gia trọng điểm (G7, G8, OECD), các tập đoàn lớn để giới thiệu tiềm năng, lợi thế của thành phố; chú trọng và tăng cường thúc đẩy xúc tiến đầu tư tại chỗ; bám sát và hỗ trợ hoạt động của tổ công tác thúc đẩy hợp tác đầu tư nước ngoài của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Với những nỗ lực trong việc ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài, chính quyền thành phố Hà Nội đã nhận được những đánh giá tích cực của DN, với 44,3% số DN được khảo sát đánh giá tốt, 23,7% DN đánh giá rất tốt. Các mức rất không tốt và không tốt tuy ít nhưng vẫn còn, chiếm lần lượt là 3,1% và 10,3%8. Như vậy, thành phố cần phát huy những ưu điểm và tổ chức thêm các kênh xúc tiến hiệu quả hơn nữa để có thể thu hút ngày càng nhiều các dự án FDI có chất lượng.

Việc ban hành chính sách cũng có những hạn chế nhất định, đó là:

(1) Về thủ tục hành chính: những quy định thủ tục hành chính còn thiếu tính đồng bộ, nhiều quy định về thủ tục hành chính chưa đạt yêu cầu về tính rõ ràng, minh bạch, nhất là các quy định về yêu cầu, điều kiện của thủ tục hành chính…, khiến tâm lý ngại đầu tư cho các DN FDI vẫn chưa được cải thiện.

(2) Về chính sách tài chính: việc lồng ghép chính sách xã hội vào chính sách ưu đãi thuế TNDN làm cho chính sách thuế thêm phức tạp, khó quản lý, dễ tạo sơ hở để DN lợi dụng giảm thuế phải nộp, gây nên tình trạng bất công bằng trong động viên thuế giữa các đối tượng. Bên cạnh đó, việc dành nhiều ưu đãi về thuế và sử dụng đất đai cho các DN FDI dẫn đến việc phân bổ nguồn lực đầu tư chưa hiệu quả, chưa thu hút được vốn đầu tư vào các địa bàn khó khăn. Các DN liên doanh còn có các thủ thuật khác để chuyển giá như nâng giá nguyên vật liệu nhập khẩu cho sản xuất của DN, dẫn đến DN kê khai lỗ và không nộp thuế TNDN ở Việt Nam; chuyển giá thông qua hình thức chuyển giao tài sản vô hình, thường là công nghệ, bí quyết kỹ thuật, bản quyền, nhãn mác, kỹ thuật quản lý, điều hành và quản trị DN; thực hiện chuyển giá thông qua hoạt động cung cấp dịch vụ từ công ty mẹ ở nước ngoài9

(3) Về chính sách đất đai: cơ chế, chính sách về đất đai áp dụng đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài vẫn còn những vướng mắc nhất định. Mặc dù trong các văn bản đã cố gắng phân loại để xác định các mức tiền thuê khác nhau cho phù hợp với điều kiện địa điểm, loại đất, hạ tầng cơ sở…, nhưng vẫn không tránh khỏi những bất hợp lý về cách tính giá đất, thời gian giao đất hay chính sách và chế độ đền bù tài sản trên đất vẫn còn chưa tốt để công tác di dân được thực hiện nhanh chóng. Bên cạnh đó, các văn bản hướng dẫn của thành phố Hà Nội là chưa có, chưa rõ ràng để DN có thể tham khảo, tìm kiếm ưu đãi trong đầu tư.

(4) Về chính sách hỗ trợ đầu tư: các cam kết, chính sách về chuyển giao công nghệ, kỹ thuật còn chưa đầy đủ, bị bỏ ngỏ cho nên việc các DN FDI chỉ coi địa phương như công xưởng sản xuất nên sẽ không chia sẻ thông tin và công nghệ. Bên cạnh đó, các chính sách phát triển công nghệ của nước ta nói chung và Hà Nội nói riêng chưa đủ chặt chẽ, ràng buộc.

(5) Về lao động: việc cung ứng lao động cho các DN FDI của các trung tâm, công ty cung ứng lao động còn bộc lộ những hạn chế và tiêu cực. Luật Lao động thực hiện không nghiêm, việc xử lý các vi phạm chưa hợp lý. Các DN FDI vẫn đang đánh giá không quá tốt về các chính sách liên quan đến lao động được thành phố Hà Nội ban hành.

(6) Về xúc tiến đầu tư: mặc dù đã có chính sách nhưng thành phố chưa thu hút được các dự án quy mô lớn trong lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ nguồn, có giá trị gia tăng cao. Quy mô vốn đầu tư/1 dự án có xu hướng giảm xuống, số lượng các dự án dịch vụ quy mô nhỏ tăng dần, có dự án đăng ký mức vốn chỉ 5.000 USD hoặc thấp hơn10.

Giải pháp hoàn thiện chính sách thu hút vốn FDI của thành phố Hà Nội đến năm 2030

Thứ nhất, nhóm chính sách liên quan đến luật và thủ tục hành chính.

(1) Hoàn thiện cơ chế, chính sách đồng bộ, nhất quán, tạo hành lang pháp lý cho việc thu hút, quản lý FDI, đổi mới chiến lược thu hút FDI từ thế hệ cũ sang thế hệ mới, phù hợp với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của Thủ đô và vùng Thủ đô.

(2) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các dự án FDI nhằm đạt được mục tiêu chính sách. Theo đó, cần ban hành hệ thống tiêu chí và hàng rào kỹ thuật theo chiến lược và định hướng thu hút FDI thế hệ mới và mục tiêu quản lý nhà nước về hiệu quả kinh tế – xã hội, môi trường làm căn cứ xúc tiến đầu tư, cấp ưu đãi đầu tư, hậu kiểm và đánh giá hiệu quả thu hút và sử dụng vốn FDI.

(3) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để bảo đảm tính công khai, minh bạch, giảm thời gian giải quyết vướng mắc cho DN trong quá trình hoạt động.

Thứ hai, nhóm chính sách liên quan đến tài chính.

Rà soát tổng thể các chính sách tài chính, đặc biệt là chính sách thuế thu hút vốn FDI đang được áp dụng, để có những điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, hướng đến xây dựng một hệ thống thuế tốt với chi phí tuân thủ thấp… Rà soát tổng thể danh mục ngành, nghề, địa bàn ưu đãi đầu tư gắn với việc đánh giá hiệu quả của các chính sách ưu đãi về đầu tư nói chung và chính sách tài chính nói riêng trên các phương diện quy mô vốn đầu tư, quy mô vốn thực hiện, tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đầu tư, số việc làm tạo ra, kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ nội địa hóa… trong mối tương quan với chi phí thuế (giảm thu NSNN).

Thứ ba, chính sách về đất đai.

Cần rà soát, hoàn thiện chính sách ưu đãi về đất đai để bảo đảm tính đồng bộ giữa pháp luật đất đai, pháp luật về đầu tư và các chính sách khác của Nhà nước. Xác định rõ đối tượng được hưởng ưu đãi về đất đai. Việc ưu đãi phải thực chất và chỉ nên thực hiện đối với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, cơ sở hạ tầng xã hội, bảo vệ môi trường, đầu tư vào địa bàn kinh tế – xã hội khó khăn và các đối tượng chính sách.

Thứ tư, chính sách về lao động.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản luật, dưới luật của Thủ đô về phát triển nguồn nhân lực phù hợp với thực tiễn và trình độ phát triển, hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nguồn nhân lực, tiếp tục đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nguồn nhân lực. Theo đó, tiếp tục nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp theo hướng tiếp cận các phương thức quản lý tiên tiến, hiện đại trên thế giới. Xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ giữa các cơ sở đào tạo, các tổ chức xã hội và các DN hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực. Đặc biệt, thành phố cần có cơ chế, chính sách đãi ngộ hợp lý, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi thu hút các nhà giáo, nhà khoa học đầu ngành trong và ngoài nước tham gia vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học công nghệ.

Thứ năm, chính sách hỗ trợ về đầu tư.

Tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên chuyển giao công nghệ, bao gồm cả việc góp vốn bằng công nghệ để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ và pháp luật về chuyển giao công nghệ. Khuyến khích việc chuyển giao vào Việt Nam công nghệ tiên tiến, công nghệ nguồn và công nghệ để tạo ra sản phẩm mới, nâng cao năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng, tài nguyên thiên nhiên; khuyến khích việc đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực quản lý và sử dụng công nghệ.

Thứ sáu, chính sách xúc tiến thu hút vốn đầu tư.

Đổi mới chính sách thu hút các dự án đầu tư. Ban hành chính sách và danh mục về các dự án ưu tiên thu hút cho các địa bàn, lĩnh vực, sản phẩm, chọn lọc các dự án sử dụng công nghệ cao. Đồng thời, phải nghiên cứu, đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả xúc tiến đầu tư, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong công tác chỉ đạo, điều hành; tập trung một đầu mối cung cấp thông tin, hướng dẫn, hỗ trợ, đồng hành cùng DN.

Chú thích:
1. Hà Nội nâng tầm vị thế thu hút FDI. https://kinhtedothi.vn, ngày 25/12/2022.
2. Tổng cục Thống kê. Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021. H. NXB Thống kê, 2022, tr. 92.
3. Thành phố Hà Nội: Điểm đến hấp dẫn nhà đầu tư. https://congthuong.vn, ngày 18/8/2022.
4. Thu hút vốn đầu tư FDI phân theo đối tác. Niên giám thống kê thành phố Hà Nội, 2021.
5. Thu hút vốn đầu tư FDI phân theo ngành kinh tế. Niên giám thống kê thành phố Hà Nội, 2021.
6. Kết quả điều tra, khảo sát của tác giả về đánh giá của doanh nghiệp về chính sách liên quan đến tài chính của Chính phủ và thành phố Hà Nội đối với doanh nghiệp FDI, tháng 10/2022.
7. Kết quả điều tra, khảo sát của tác giả về đánh giá của doanh nghiệp về các khó khăn khi chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước, tháng 10/2022.
8. Kết quả điều tra, khảo sát của tác giả về đánh giá của doanh nghiệp về các chính sách xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của chính quyền thành phố Hà Nội, tháng 10/2022.
9. Hoàn thiện thể chế, chính sách đối với doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. https://mof.gov.vn, ngày 31/01/2020.
10. Doanh nghiệp FDI vào Việt Nam:Quy mô ngày càng teo tóp. https://tienphong.vn, ngày 08/8/2019.
TS. Nguyễn Duy Đạt
ThS. Lê Quốc Cường
Trường Đại học Thương mại Hà Nội