Thực hiện mô hình bốn trụ cột chính sách an sinh xã hội ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2020 – 2023

(Quanlynhanuoc.vn) – An sinh xã hội là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính sách xã hội, là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở nước ta. An sinh xã hội có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ cộng đồng, thúc đẩy bình đẳng và công bằng xã hội. Những năm gần đây, tỉnh Ninh Bình đã tập trung cao cho công tác bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện đồng bộ mô hình bốn trụ cột chính sách an sinh xã hội, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện cuộc sống, góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, ổn định chính trị của tỉnh. Đây chính là nội dung bài viết đề cập tới, trên cơ sở đó, nhằm đề xuất một số giải pháp góp phần đưa mô hình này ở tỉnh Ninh Bình hoạt động hiệu quả hơn.
Ảnh minh họa (internet).

An sinh xã hội (ASXH) là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở nước ta, trong đó có tỉnh Ninh Bình. ASXH là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính sách xã hội và hoạt động xã hội. Đặc điểm của hệ thống ASXH là Nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng, người dân cùng chia sẻ trách nhiệm xã hội đối với mọi thành viên trong xã hội khi họ gặp rủi ro và bảo vệ an toàn cho họ. Tại tỉnh Ninh Bình, trong giai đoạn 2020 – 2023 đã triển khai mô hình bốn trụ cột về ASXH và đã đạt được kết quả đáng kể, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.

Mô hình bốn trụ cột chính sách an sinh xã hội

Hệ thống ASXH của nước ta ngày càng được hoàn thiện và đã trở thành bốn trụ cột rất quan trọng, gồm:

(1) Trụ cột phòng ngừa rủi ro: đây là chính sách bảo đảm việc làm, tạo thu nhập và giảm nghèo nhằm hỗ trợ người dân chủ động phòng ngừa các rủi ro trên thị trường lao động thông qua các chính sách đào tạo kỹ năng nghề nghiệp, tín dụng, tạo việc làm, thu nhập tối thiểu và giảm nghèo đơn chiều, đa chiều, bền vững.

(2) Trụ cột giảm thiểu rủi ro: bao gồm chính sách bảo hiểm y tế (BHYT) và chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH). Trong đó, chính sách BHYT là để bảo đảm hiệu quả nâng cao sức khỏe người dân; chính sách BHXH nhằm hỗ trợ người dân giảm thiểu rủi ro về sức khỏe khi ốm đau, tai nạn, tuổi già và khi bị thất nghiệp thông qua các hình thức, cơ chế BHXH để bù đắp một phần thu nhập bị mất hoặc bị suy giảm.

(3) Trụ cột khắc phục rủi ro: đây là chính sách trợ giúp xã hội nhằm hỗ trợ đột xuất và hỗ trợ thường xuyên cho người dân khắc phục các rủi ro khó lường, vượt quá khả năng kiểm soát như mất mùa, bệnh dịch, đói nghèo.

(4) Trụ cột 5 dịch vụ xã hội cơ bản: đây là trụ cột ASXH nhằm hỗ trợ người dân tiếp cận hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu, bao gồm: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin truyền thông, trợ giúp pháp lý. Chính sách này nhằm hỗ trợ thường xuyên hoặc đột xuất cho các thành viên trong xã hội khi họ rơi vào cảnh rủi ro, bất hạnh, nghèo đói, yếu thế hoặc hẫng hụt trong cuộc sống mà bản thân họ không đủ khả năng tự lo được cuộc sống của bản thân và gia đình ở mức tối thiểu.

Nhiệm vụ trọng tâm thực hiện mô hình bốn trụ cột chính sách an sinh xã hội của tỉnh Ninh Bình

Xuất phát từ nhận thức về mối quan hệ hữu cơ, gắn kết mật thiết giữa ASXH và phát triển kinh tế, các cấp ủy đảng, chính quyền tỉnh Ninh Bình đã tập trung cao cho công tác bảo đảm ASXH, giảm tỉ lệ nghèo, giải quyết việc làm cho người lao động; thực hiện đồng bộ mô hình bốn trụ cột chính sách ASXH góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.

Các nhiệm vụ trọng tâm thực hiện mô hình bốn trụ cột chính sách ASXH gồm: đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác người có công, hỗ trợ các đối tượng yếu thế; thực hiện đồng bộ các giải pháp giảm nghèo bền vững. Phát triển thị trường lao động lành mạnh, đồng bộ gắn với đào tạo nghề, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng tầm kỹ năng lao động. Phấn đấu bình quân mỗi năm tạo việc làm cho 19.400 lao động, trong đó xuất khẩu lao động 1.400 người; tỷ lệ thất nghiệp giữ ổn định mức dưới 2%/năm; tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2025 đạt từ 70%-72%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt từ 28%-32%; huy động mọi nguồn lực, phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ giảm 2/3 số hộ nghèo 1.

Về các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác bảo đảm ASXH, tỉnh Ninh Bình đã ban hành 31 văn bản chính sách về công tác bảo đảm ASXH. Trong đó: có 01 nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về giảm nghèo bền vững tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2021- 2025, 1 kế hoạch của Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về giảm nghèo bền vững, 27 nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh liên quan đến công tác bảo đảm ASXH.

Các văn bản chính sách về công tác bảo đảm ASXH tập trung cụ thể ở các nội dung: chính sách tạo việc làm nâng cao thu nhập cho người lao động có 2 nghị quyết; chính sách hỗ trợ giảm nghèo có 3 nghị quyết; chính sách BHXH có 2 nghị quyết; chính sách hỗ trợ các đối tượng khó khăn có 9 nghị quyết (2022 – 2023) và được chia thành 2 nhóm nhỏ: trợ giúp xã hội gồm 4 nghị quyết và hỗ trợ rủi ro đột xuất do dịch bệnh gồm 5 nghị quyết; chính sách hỗ trợ tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản tối thiểu với 11 nghị quyết (2021- 2023) và được chia thành 4 nhóm nhỏ: hỗ trợ giáo dục tối thiểu với 6 nghị quyết, hỗ trợ y tế tối thiểu với 3 nghị quyết, hỗ trợ nhà ở với 1 nghị quyết, bảo đảm nước sạch với 1 nghị quyết 2.

Kết quả thực hiện bốn trụ cột chính sách an sinh xã hội ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2020 – 2023

Tính đến đầu năm 2023, việc thực hiện bốn trụ cột chính sách ASXH ở tỉnh Ninh Bình đã đạt được nhiều kết quả cao, đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, cụ thể như sau:

(1) Đối với lĩnh vực lao động, việc làm và giảm nghèo.

Các chính sách tạo việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo ở tỉnh Ninh Bình đã hỗ trợ người dân có cơ hội tìm kiếm việc làm tốt, tham gia thị trường lao động, chuyển đổi cơ cấu việc làm theo hướng đa dạng hóa sinh kế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện cuộc sống, góp phần ổn định xã hội.

Ngoài ra, tỉnh Ninh Bình đã tạo việc làm cho trên 19.000 người mỗi năm, khởi động việc xuất khẩu lao động sau dịch Covid-19; cung cấp tín dụng cho đối tượng hội viên phụ nữ, hội viên nông dân, đoàn viên thanh niên, người ở vùng bị chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp để đầu tư phát triển sản xuất – kinh doanh, tạo việc làm; tỷ lệ thất nghiệp giữ ổn định mức dưới 2%/năm; tỷ trọng lao động nông nghiệp (gồm cả lâm nghiệp, thủy hải sản) ước còn khoảng 27,9%. Một trong những kết quả nổi bật nhất của việc thực hiện chính sách ASXH ở tỉnh là tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh; tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh đến năm 2022 giảm xuống còn 2,59% tạo điều kiện thuận lợi để giảm nghèo đa chiều và khuyến khích làm giàu 3 .

(2) Đối với lĩnh vực BHXH và bảo hiểm thất nghiệp.

Tỉnh Ninh Bình đã chỉ đạo thực hiện các loại hình bảo hiểm mang tính xã hội theo quy định của Luật BHXH Luật Việc làm. Việc thực hiện đồng thời hai loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện đã đáp ứng được nhu cầu tham gia BHXH của mọi đối tượng lao động. Thực hiện đầy đủ các quy định về Bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật Việc làm là nhằm bảo đảm thu nhập cho người lao động trong thời gian bị thất nghiệp, đồng thời, áp dụng các biện pháp hỗ trợ để họ sớm quay trở lại thị trường lao động. Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành nghị quyết về việc quy định hỗ trợ kinh phí đóng BHYT đối với một số nhóm đối tượng đăng ký thường trú trên địa bàn tỉnh; tỷ lệ tham gia BHYT năm 2022 đạt 92,85% 4, bảo đảm mọi người dân đều được tiếp cận với dịch vụ y tế khi bị ốm đau, bệnh tật.

(3) Về trợ giúp xã hội.

Tỉnh đã vận động, đóng góp xây dựng Quỹ Đền ơn đáp nghĩa và ASXH các cấp; riêng quỹ cấp tỉnh đạt trên 31 tỷ đồng. Hằng năm, vào các ngày lễ, Tết từ tỉnh đến cơ sở đều duy trì tốt việc thăm hỏi tặng quà cho người có công với cách mạng và gia đình liệt sĩ. Tỉnh cũng đã kịp thời phân công các cơ quan, đơn vị trong tỉnh nhận phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam anh hùng đến hết đời. Thực hiện trợ cấp tiền mặt hằng tháng và cấp thẻ BHYT cho các đối tượng trẻ mồ côi, người đơn thân nuôi con thuộc hộ nghèo, người trên 80 tuổi, người khuyết tật. Đã hình thành hệ thống gồm 03 cơ sở trợ giúp xã hội nuôi dưỡng, chăm sóc các đối tượng đặc biệt, trong đó, số người khuyết tật, tâm thần chiếm tới 56% 5.

(4) Về các dịch vụ xã hội cơ bản.

Đã bảo đảm giáo dục tối thiểu với tỷ lệ trẻ 5 tuổi học mầm non đạt 98,93%; trẻ dưới 4 tuổi học mầm non đạt 98,61%; tỷ lệ đi học tiểu học đúng tuổi đạt 99,69%, tỷ lệ đi học trung học cơ sở đúng tuổi đạt 97,89%; tỷ lệ học sinh đạt trình độ phổ thông trung học là 82%; tỷ lệ trẻ em khuyết tật đi học đạt 70%; tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên đạt 99%; tỷ lệ lao động được đào tạo đạt 68,1%, trong đó đào tạo nghề đạt 58,5% 6.

Bảo đảm y tế tối thiểu: tỷ lệ xã đạt bộ tiêu chí quốc gia về y tế đạt 98,6%; 100% số xã có trạm y tế hoạt động; 98,2% số thôn, bản có nhân viên y tế, 85% số xã có bác sĩ; 98% số xã có y sĩ sản nhi hoặc nữ hộ sinh; BHYT đã chi trả chi phí để phụ nữ khi có thai được khám thai, sinh đẻ tại các cơ sở y tế. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em giảm còn 12% 7.

Bảo đảm nước sạch: Thực hiện xây dựng các công trình nước sạch tập trung ở cả thành thị và nông thôn; tỷ lệ hộ dân được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh và nước sạch đạt 95,6%, tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế đạt 93,5% 8.

Một số kiến nghị, giải pháp thực hiện tốt hiệu quả mô hình bốn trụ cột an sinh xã hội ở Ninh Bình

Việc thực hiện mô hình bốn trụ cột chính sách ASXH ở tỉnh Ninh Bình đang gặp phải nhiều thách thức lớn. Trong đó, có thách thức, như: sự cồng kềnh, chồng chéo của hệ thống chính sách ASXH, các khó khăn, trở ngại đối với mục tiêu, chất lượng, hiệu quả, mức độ bao phủ, trợ giúp xã hội, sự tham gia của các bên liên quan trong ban hành và thực hiện chính sách ASXH. Trước tình hình này, cần phải có các giải pháp để tiếp tục thực hiện hiệu quả mô hình bốn trụ cột chính sách ASXH, trong đó tập trung vào các nội dung sau:

Một là, gắn kết hệ thống các chính sách, chương trình, hoạt động ASXH của các cấp từ tỉnh đến các địa phương trong tỉnh thành một thể thống nhất, minh bạch, tránh chồng chéo, phân tán, kém hiệu quả.

Hiện nay, có nhiều chương trình, hoạt động ASXH của các cấp từ tỉnh đến các địa phương, do nhiều cơ quan, đơn vị tổ chức cùng hoạt động, dẫn tới chồng chéo, trùng lặp, kém hiệu quả. Vì vậy, cần nghiên cứu, thiết kế lại tổng thể chương trình bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn của tỉnh Ninh Bình, đơn giản, minh bạch, dễ thực hiện và dễ quản lý, trong đó, chú trọng các chương trình về việc làm, giảm nghèo, bảo trợ xã hội và cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân.

Bên cạnh đó, cần chú trọng việc bảo đảm nguồn lực thực hiện chính sách ASXH phù hợp, tránh dàn trải. Các chính sách cần bảo đảm tính liên kết, liên thông tốt, như: chính sách tín dụng gắn với tạo việc làm, dạy nghề gắn với nhu cầu việc làm… Tăng cường thực hiện cơ chế xã hội hóa và sự đóng góp nguồn lực của các tổ chức, doanh nghiệp, qua đó huy động cao nhất các nguồn lực cho ASXH.

Hai là, thực hiện tốt các chính sách, chương trình, dự án giảm nghèo toàn diện và bền vững, có chính sách giảm nghèo cho hộ nghèo thuộc diện bảo trợ xã hội.

Thực hiện giải pháp này nhằm mục đích nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, quản lý chăm sóc, nuôi dưỡng, điều trị đối với các đối tượng bảo trợ xã hội; tổ chức chi trả đúng, đủ, kịp thời trợ cấp xã hội thường xuyên tại cộng đồng; nâng dần mức trợ cấp xã hội, mở rộng đối tượng, nghiên cứu ban hành chính sách hỗ trợ người cao tuổi, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Đẩy mạnh các phong trào Đền ơn đáp nghĩa, Uống nước nhớ nguồn, nâng cao chất lượng công tác người có công với cách mạng.

Ba là, tập trung thực hiện các giải pháp phát triển giáo dục nghề nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với đổi mới, sáng tạo.

Cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, các ngành nghề mũi nhọn có tiềm năng phát triển. Thực hiện đào tạo, đào tạo lại; tăng cường hợp tác giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp; có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề gắn với tiếp nhận, sử dụng lao động. Thực hiện hiệu quả các chương trình, đề án, giải pháp phát triển thị trường lao động; nâng cao năng lực dự báo nguồn nhân lực và thông tin thị trường lao động; đẩy mạnh giải quyết việc làm, hỗ trợ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

Bốn là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động; tăng cường quản lý nhà nước về lao động, tiền lương, tiền công, BHXH, an toàn vệ sinh lao động. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ BHXH, hướng tới mục tiêu BHXH toàn dân. Tăng cường công tác tuyên truyền về phòng, chống ma túy, mại dâm, mua bán người, bảo vệ chăm sóc trẻ em và bình đẳng giới.

Chú thích:
1, 6, 7, 8. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XXII nhiệm kỳ 2020 – 2025. Công ty in Hà Phương Ninh Bình, 2020.
2, 3, 4. Báo cáo số 258-BC/TU ngày 08/12/2022 của Tỉnh ủy Ninh Bình về kết quả lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2022, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2023.
5. Cục Thống kê Ninh Bình. Niên giám Thống kê tỉnh Ninh Bình (năm 2019, 2020, 2021).
Tài liệu tham khảo:
1. Mai Ngọc Cường. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội. H. NXB Chính trị quốc gia, 2009.
2. Lê Ngọc Hùng. Xã hội học chính kinh tế. H. NXB Lý luận chính trị, 2004.
3. Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 2020.
4. Nguyễn Thị Thanh. Đảng lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội trong thời k đổi mới. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011.
5. Tăng trưởng vì mọi người: Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2015 về tăng trưởng bao trùm. H. NXB Khoa học xã hội, 2016.
ThS. Nguyễn Thuý Mai
Trường Đại học Hoa Lư