Nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ trong quản lý xuất, nhập cảnh

(Quanlynhanuoc.vn) Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm, xuyên suốt nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, góp phần xây dựng lực lượng công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Ngày 21/02/2020, Bộ trưởng Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 19/2020/TT-BCA quy định về thực hiện dân chủ trong công tác quản lý xuất, nhập cảnh của công an nhân dân. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để lực lượng công an nhân dân tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định về thực hiện dân chủ trong quản lý xuất cảnh, nhập cảnh nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Ảnh minh họa (internet).
Đặt vấn đề

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ. Tuy nhiên, trước thời kỳ đổi mới, do thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp nên quyền làm chủ của Nhân dân ở một góc độ nào đó còn nhiều hạn chế. Nhằm thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cơ sở, để Nhân dân quyết định trực tiếp những công việc quan trọng, thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình và nhằm cụ thể hóa Nghị quyết số 03-NQ/HNTW ngày 18/6/1997 của Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Đây là một nhiệm vụ quan trọng, cấp bách để phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ở cơ sở, nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nơi thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân một cách trực tiếp, rộng rãi nhất. Việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân phải đặt trong tổng thể mối quan hệ chính trị – pháp lý “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”1 nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, thu hút Nhân dân tham gia quản lý nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng, tiêu cực. Qua đó, góp phần xây dựng bộ máy chính quyền ở cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Cơ sở thực hiện dân chủ trong quản lý xuất, nhập cảnh

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ”. Người còn nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”2. Kế thừa, phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”3. Bên cạnh đó, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã tập trung làm rõ tình hình, phương hướng, nhiệm vụ: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” “dân chủ phải được thực hiện đầy đủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để Nhân dân tham gia ở tất cả các lĩnh vực của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của Nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luật, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện”4. Trên cơ sở đó, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng khẳng định: “Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng5.

Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 2 Điều 2: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân” 6. Nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Hiến pháp năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập (thay thế Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ngày 08/9/1998 của Chính phủ về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan). Triển khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện dân chủ ở cơ sở, Bộ trưởng Bộ Công an đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-BCA ngày 28/9/2011 về tăng cường thực hiện dân chủ trong công an nhân dân trong tình hình mới và Chỉ thị số 04/CT-BCA ngày 22/6/2016 về triển khai thực hiện Kết luận số 120-KL/TW ngày 07/01/2016 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong công an nhân dân.

Nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện dân chủ, Bộ trưởng Bộ Công an ban hành Thông tư số 19/2020/TT-BCA ngày 21/02/2020 quy định về thực hiện dân chủ trong công tác quản lý xuất, nhập cảnh của công an nhân dân nhằm: (1) Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân có yêu cầu hoặc liên quan đến việc giải quyết thủ tục xuất, nhập cảnh; tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, các nhân tham gia sát việc thực hiện dân chủ trong công tác quản lý xuất, nhập cảnh; (2) Xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ thực hiện công tác quản lý xuất, nhập cảnh có đủ phẩm chất, năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; (3) Chủ động phòng ngừa, phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác quản lý xuất, nhập cảnh… Đây là cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng để lực lượng công an nhân dân tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định về thực hiện dân chủ trong quản lý xuất, nhập cảnh nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

Kết quả thực hiện dân chủ trong quản lý xuất, nhập cảnh thời gian qua

Thứ nhất, xác định việc thực hiện dân chủ ở cơ sở là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm, xuyên suốt nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý xuất, nhập cảnh; góp phần xây dựng lực lượng công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Hằng năm, Cục Quản lý xuất, nhập cảnh, Bộ Công an đều ban hành kế hoạch thực hiện dân chủ trong đơn vị, trong đó xác định rõ mục đích, yêu cầu và các nhiệm vụ trọng tâm cần triển khai thực hiện, chủ động đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng thực hiện dân chủ, bảo đảm được tiến hành thường xuyên, liên tục gắn với việc thực hiện Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; hướng dẫn của Đảng ủy Công an Trung ương để chủ động gắn việc thực hiện dân chủ với nhiệm chính trị được giao, nâng cao ý thức, trách nhiệm, chất lượng công tác chuyên môn, phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Tích cực nghiên cứu, xây dựng, sửa đổi các quy định về thực hiện dân chủ trong lĩnh vực quản lý.

Thứ hai, lồng ghép nội dung, hình thức tuyên truyền, phổ biến các quy định về thực hiện dân chủ đến từng cán bộ, chiến sĩ thông qua các cuộc sinh hoạt chính trị, sinh hoạt chi bộ; tuyên truyền, phổ biến đến mọi người dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, đưa lên website của đơn vị (bằng tiếng Việt, tiếng Anh) để người dân biết, thực hiện; niêm yết nội quy làm việc của cơ quan, lịch tiếp công dân, sơ đồ chỉ dẫn nơi làm thủ tục, công khai số điện thoại đường dây nóng của cơ quan để kịp thời giải đáp những khó khăn, vướng mắc cho người dân khi làm thủ tục xuất, nhập cảnh. Hòm thư góp ý được đặt ở những vị trí thuận lợi để các tổ chức, cá nhân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng cơ quan, đơn vị; phản ánh tinh thần, thái độ làm việc, ý thức phục vụ Nhân dân, tác phong, lề lối làm việc của cán bộ, chiến sĩ… Những ý kiến đóng góp chính đáng của người dân đều được nghiên cứu, tiếp thu; mọi thắc mắc đều được giải thích rõ ràng, cụ thể; việc khiếu nại, tố cáo được cấp ủy, lãnh đạo đơn vị xem xét, giải quyết kịp thời, nghiêm túc bảo đảm chính xác, khách quan... Ngoài ra, xây dựng kế hoạch kiểm tra công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; theo dõi kiểm tra việc thi hành pháp luật, thực hiện dân chủ ở cơ sở. Báo cáo, kiến nghị với cấp có thẩm quyền các giải pháp cụ thể để kịp thời khắc phục những hạn chế, bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện.

Thứ ba, tập trung rà soát các quy trình, thủ tục, văn bản hướng dẫn các mặt công tác để đề xuất, kiến nghị loại bỏ hoặc thay thế những thủ tục không còn phù hợp theo hướng đơn giản hóa các thủ tục hành chính, bảo đảm tính công khai, minh bạch, thông thoáng góp phần nâng cao hiệu quả công tác tiếp nhận, giải quyết và các loại giấy tờ liên quan đến xuất, nhập cảnh. Đẩy mạnh triển khai cổng thông tin điện tử tích hợp xuất, nhập cảnh quốc gia, các phần mềm quản lý xuất, nhập cảnh đã tạo nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin cho việc triển khai, tích hợp các ứng dụng, tạo lập được môi trường giao tiếp hiện đại với người dân, doanh nghiệp; thực hiện tốt việc cung cấp các dịch vụ công trực tuyến nhanh chóng, tiện lợi. Thực hiện Quyết định số 10695/QĐ-BCA ngày 25/12/2021 của Bộ trưởng Bộ Công an về việc phê duyệt danh mục dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 cung cấp trên Cổng dịch vụ công Bộ Công an năm 2022, trong đó lĩnh vực quản lý nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam đã có khoảng 20 thủ tục hành chính áp dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Qua đó, giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân tiết kiệm thời gian, công sức do không phải trực tiếp đến trụ sở Cục Quản lý xuất, nhập cảnh hoặc Phòng Quản lý xuất, nhập cảnh Công an cấp tỉnh để nộp hồ sơ và nhận kết quả trả lời.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện dân chủ trong quản lý xuất, nhập cảnh vẫn còn một số hạn chế, bất cập như:

Một là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong một số trường hợp cụ thể còn chưa kịp thời, chưa thường xuyên, liên tục.

Hai là, việc công khai các nội dung liên quan theo quy định còn chưa đầy đủ, chưa kịp thời.

Ba là, vẫn còn tình trạng một bộ phận người dân lợi dụng vấn đề dân chủ để có những yêu cầu, đòi hỏi không chính đáng, không hợp pháp.

Bốn là, việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

Những hạn chế, bất cập nêu trên, nguyên nhân cơ bản, chủ yếu nhất là do: (1) Một số cấp ủy, lãnh đạo đơn vị chưa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, đôn đốc trong quá trình tổ chức thực hiện; (2) Nhận thức của bộ phận cán bộ, chiến sĩ về vị trí, vai trò dân chủ, trách nhiệm của bản thân trong thực hiện các quy định còn chưa đầy đủ; (3) Chưa cụ thể hóa kịp thời các quy chế, quy định, quy trình công tác; (4) Việc sơ kết, tổng kết thực hiện dân chủ trong quản lý xuất, nhập cảnh còn chưa thường xuyên; (5) Các điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện dân chủ còn nhiều hạn chế.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ trong quản lý xuất, nhập cảnh thời gian tới

Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước sẽ tiếp tục có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; xuất hiện ngày càng nhiều các mối đe dọa an ninh phi truyền thống; âm mưu, phương thức hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm ngày càng tinh vi, nguy hiểm; các tệ nạn xã hội, thiên tai, dịch bệnh… đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ, bất ổn trong xã hội. Bên cạnh đó, những tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quá trình phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang đặt ra cả cơ hội và thách thức cho lực lượng công an nhân dân nói chung, lực lượng quản lý xuất, nhập cảnh nói riêng. Để nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ trong quản lý xuất, nhập cảnh cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ cơ bản sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, lãnh đạo Công an các cấp về thực hiện dân chủ trong quản lý xuất, nhập cảnh. Trong đó, cần tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, phân công trách nhiệm cụ thể đối với từng tổ chức, cá nhân có liên quan; phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cấp ủy, người đứng đầu các đơn vị trong thực hiện các quy định về dân chủ ở cơ sở; thường xuyên tiến hành thanh tra, kiểm tra việc thực hiện văn hóa ứng xử, việc thực hiện quy chế, quy trình, kỷ luật công tác của cán bộ, chiến sĩ; chủ động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng, tiêu cực hoặc hành vi lợi dụng dân chủ để xâm phạm an ninh quốc gia, cản trở người thi hành công vụ.

Thứ hai, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Trong đó, cần tuyên truyền tới các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan những văn bản quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở; quy định về trình tự, thủ tục cấp, đổi các loại giấy tờ có giá trị xuất, nhập cảnh… bảo đảm phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Đa dạng hóa các hình thức, biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thực hiện về dân chủ ở cơ sở cho cán bộ, chiến sĩ và người dân thông qua Internet, cổng thông tin điện tử; niêm yết các quy định về xuất nhập cảnh tại trụ sở cơ quan, đơn vị để người dân thuận tiện tiếp cận, nghiên cứu thực hiện. Kiên quyết xử lý nghiêm minh những trường hợp cán bộ, chiến sĩ có hành vi tham nhũng, tiêu cực, vi phạm quy chế, quy trình, kỷ luật công tác nhằm củng cố niềm tin của Nhân dân vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật.

Thứ ba, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý xuất, nhập cảnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Chất lượng của đội ngũ cán bộ là nhân tố quyết định trực tiếp đến hiệu quả thực hiện dân chủ trong quản lý xuất, nhập cảnh. Thời gian tới, số lượng người dân có nhu cầu xuất, nhập cảnh sẽ tiếp tục có xu hướng tăng nhanh, sẽ làm nảy sinh những vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự. Trong khi, Đảng, Nhà nước và Bộ Công an đang thực hiện chủ trương tinh gọn bộ máy, tinh giảm biên chế, do đó, lực lượng quản lý xuất, nhập cảnh sẽ không được bổ sung thêm nhiều biên chế. Vì vậy, cần tập trung tiến hành rà soát, đánh giá cán bộ theo quy định về tiêu chí, tiêu chuẩn bố trí việc làm, định kỳ phân loại, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ; tập trung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý xuất, nhập cảnh theo hướng toàn diện, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế… Thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng xử lý công việc cho cán bộ, chiến sỹ.

Thứ tư, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ và cải cách hành chính trong quản lý xuất, nhập cảnh. Trong đó, cần nhanh chóng triển khai nghiên cứu, khảo sát nhu cầu trang cấp phương tiện kỹ thuật mới phục vụ yêu cầu công tác; tiếp tục triển khai hiệu quả các phần mềm công nghệ thông tin trong quản lý xuất nhập cảnh, như: phần mềm dữ liệu PRN từ cổng thông tin một cửa quốc gia phục vụ công tác kiểm soát tại cửa khẩu; ứng dụng quản lý xuất, nhập cảnh trên thiết bị di động (điện thoại, máy tính bảng…); hệ thống sử dụng các công cụ tin học “thông minh” khai phá dữ liệu, tri thức quản lý và “lưu vết”; ứng dụng và phát triển công nghệ mới, ưu tiên công nghệ số, kết nối 5G và sau 5G, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối (Blockchain)… giúp tiết kiệm thời gian, chi phí cho người dân khi làm thủ tục xuất, nhập cảnh.

Chú thích:
1. Chỉ thị số 30 – CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
2. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 232.
3. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2015, tr. 168.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 172 – 173.
6. Hiến pháp năm 2013.
ThS. Nguyễn Mạnh Hùng
Học viện Chính trị Công an nhân dân