(Quanlynhanuoc.vn) – Cải cách hành chính và chuyển đổi quản lý nhà nước sang quản trị quốc gia trở thành yêu cầu tất yếu, một mũi đột phá nhằm thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, phát huy dân chủ và góp phần nâng cao chất lượng đời sống của người dân. Ở nước ta, cải cách hành chính gắn với quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả trở thành một trong các biện pháp được ưu tiên hàng đầu nhằm thúc đẩy công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế. Để thực hiện được sự chuyển đổi đó, đòi hỏi công tác quản lý nguồn nhân lực trong khu vực công, nhất là cơ quan hành chính nhà nước phải nhanh chóng thay đổi phù hợp với yêu cầu cao của nền hành chính công mới.
Đặc trưng của quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả và những yêu cầu đối với nguồn nhân lực công
Quản trị quốc gia (Governance) được các quốc gia trên thế giới đề cập trong thập niên cuối của thế kỷ XX và ngày nay trở thành một trào lưu đổi mới trong quản lý nhà nước. Đó là đổi mới hoạt động của nhà nước dựa trên các quan điểm và sử dụng các phương pháp, thành tựu mới nhất của khoa học – công nghệ hiện đại, công nghệ số vào thực hiện mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của quản trị quốc gia, tạo điều kiện thuận lợi, lợi thế cạnh tranh cho kinh tế – xã hội của đất nước phát triển nhanh, bền vững và phục vụ người dân tốt hơn.
Ở nước ta, khái niệm quản trị quốc gia được đề cập trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật.
Quản trị quốc gia được hiểu là phương thức vận hành, quản lý xã hội bằng thể chế, luật lệ, cơ chế, quy trình trên cơ sở sự tương tác, phối hợp dân chủ giữa các chủ thể nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức xã hội trong quá trình xây dựng, ban hành, thực thi pháp luật, chính sách phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quyền, lợi ích của các chủ thể và tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực quốc gia1.
Quản trị quốc gia là cách thức tổ chức quyền lực chính trị, hành chính, xã hội nhằm quản trị xã hội, quản trị sự phát triển xã hội, bảo đảm lợi ích công và vì mục tiêu phát triển quốc gia. Quản trị quốc gia cũng có thể hiểu là một tập hợp những nguyên tắc và tiêu chí về quản lý xã hội nhằm hướng đến mục tiêu thúc đẩy, bảo đảm sự phát triển hài hoà, bền vững của một quốc gia2. Có thể nhận diện quản trị quốc gia tạo ra một số biến đổi trong phương thức quản lý hành chính nhà nước với một số đặc trưng và yêu cầu nguồn nhân lực trong khu vực công ở một số khía cạnh sau:
Một là, sự chuyển đổi từ một nhà nước, một nền hành chính “toàn năng” “Chính phủ tự làm tất cả”, Nhà nước là “chủ thể duy nhất” giữ vai trò phân phối và bố trí các nguồn lực; can thiệp và kiểm soát mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vai trò của doanh nghiệp, người dân ít được coi trọng sang một Nhà nước, một nền hành chính đa chủ thể, bao gồm: Nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức xã hội.
Ba chủ thể cơ bản của quản trị quốc gia là Nhà nước, xã hội và thị trường đại diện cho các bộ phận cấu thành của xã hội hiện đại. Trong đó, một chính phủ có năng lực và trách nhiệm, một thị trường cũng như hệ thống doanh nghiệp có hiệu quả và một mạng lưới các tổ chức gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lýcủa Nhà nước. Nhà nước là chủ thể quản trị quốc gia quan trọng nhất, nhưng Nhà nước không phải là chủ thể duy nhất tham gia vào quản trị quốc gia. Giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội trong xã hội hiện đại đề cao vai trò của người dân, doanh nghiệp gắn liền với nhà nước. Mặt khác, những vấn đề mới phát sinh trong quản trị quốc gia, nhà nước sẽ phải huy động sự tham gia của khu vực ngoài nhà nước, xã hội và thị trường vào quá trình này.
Hai là, sự chuyển đổi mạnh mẽ từ nền hành chính thiên về “cai trị”, chưa thực sự thực hiện tốt trách nhiệm công sang nền hành chính phục vụ, trách nhiệm đang đặt ra nhiều vấn đề cần đổi mới trong vận hành nhà nước.
Mô hình hành chính công truyền thống lấy hiệu quả làm định hướng cơ bản, thông qua mệnh lệnh, tập quyền, các biện pháp hành chính để duy trì trật tự xã hội, ít chú trọng đến trách nhiệm phục vụ. Mô hình này nhấn mạnh chức năng kế hoạch hóa và chức năng kiểm soát, coi xã hội và công dân là khách thể và đối tượng quản lý mà coi nhẹ chức năng phục vụ đối với công chúng và xã hội; “quá trình quản lý nhà nước là một quá trình từ trên xuống dưới, việc hoạch định chính sách nhấn mạnh việc “đưa chính sách vào cuộc sống” mà coi nhẹ “đưa cuộc sống vào chính sách”. Điều này đã cản trở tính tích cực, chủ động của xã hội và công dân, ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện giá trị tự do, dân chủ; mầm mống tạo ra quan liêu, ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng đối với các cơ quan hành chính nhà nước”3.
Sự chuyển đổi mô hình quản lý nhà nước sang quản trị quốc gia gắn với cải cách hành chính làm cho nền hành chính chuyển mạnh sang nền hành chính phục vụ, trách nhiệm. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”. Thông qua cải cách hành chính để thiết lập một “Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ Nhân dân”, đồng thời, “lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân… làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”4. Nhìn từ thực tiễn, thời gian qua, những chuyển biến tích cực về tư duy quản lý, về văn hóa hành chính và cải cách thể chế hành chính, thủ tục hành chính và cơ chế vận hành… đã làm cho nền hành chính phục vụ người dân, xã hội và doanh nghiệp tốt hơn.
Ba là, trong điều kiện nền hành chính “toàn năng”, cơ quan hành chính thường ưu tiên việc sử dụng các biện pháp cưỡng chế và mệnh lệnh hành chính. “Mô thức hành chính truyền thống nhấn mạnh quyền lực của cơ quan hành chính và nhà quản lý, trong đó người quản lý thường chịu trách nhiệm trước cấp trên chứ không chịu trách nhiệm với người dân và cấp dưới. Điều này duy trì một ranh giới rõ ràng giữa “quan” và “dân”; mặt khác, giữa “quan” và “dân” cũng thiếu sự tương tác tích cực lẫn nhau” 5.
Quản trị quốc gia đòi hỏi cần gia tăng sự tương tác giữa các chủ thể liên quan. Quá trình phối hợp giữa các chủ thể quản trị quốc gia không phải là quá trình một chiều từ phía Nhà nước mà luôn có sự tương tác giữa Nhà nước với doanh nghiệp, các tổ chức xã hội nhằm tìm ra điểm cân bằng và lợi ích chung, lợi ích quốc gia và lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích xã hội. Các cơ quan hành chính nhà nước phải chú ý hơn tới việc tương tác và đối thoại với công dân, chú trọng sự hợp tác giữa chính quyền với doanh nghiệp và xã hội; quá trình hoạch định chính sách chú trọng hơn phản biện xã hội của các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân. Do vậy, đòi hỏi quản lý nguồn nhân lực trong khu vực công phải đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có kỹ năng và chú trọng đối thoại với công dân, lắng nghe ý kiến và “bảo đảm để Nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của Nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện”6. Đây là nội dung quan trọng về đổi mới phương thức quản lý cán bộ, công chức, viên chức; thay đổi phong cách, trách nhiệm, quy chuẩn thực thi công vụ trong khu vực công hiện nay.
Bốn là, trong quản trị quốc gia, vai trò của Nhà nước được định vị lại. Quản trị quốc gia đòi hỏi bộ máy nhà nước phải công khai, minh bạch các chủ trương, chính sách, đặc biệt làm cho doanh nghiệp, công dân dễ dàng hơn trong việc tiếp cận cơ quan hành chính, tiếp đó, phát huy vai trò giám sát của mình. Nhà nước không chỉ tập trung sự chú ý vào bộ máy nhà nước, tính hiệu quả và trình tự ưu tiên trong công việc mà cần nhìn ra bên ngoài, từ đó, kết nối, liên hệ rộng rãi và thực hiện sự tương tác, trao đổi với tổ chức xã hội, cộng đồng doanh nghiệp, người dân để tìm ra những giá trị ưu tiên cho mỗi giai đoạn phát triển.
Trong thực tiễn hoạt động hành chính hiện nay, tính giải trình, thuyết phục, tiếp nhận phản biện xã hội; giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa được đề cao, vì vậy, sự đồng thuận xã hội chưa đạt như mong muốn. Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, thực hiện tiêu chí minh bạch của mô hình quản trị quốc gia, trong công tác quản lý nguồn nhân lực cần chú trọng bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan hành chính nhà nước thay đổi phong cách tiếp cận vấn đề; phải tôn trọng, chú tâm ý kiến phản ánh của người dân, doanh nghiệp; chú trọng và có kỹ năng giải trình, thuyết phục Nhân dân trong thực thi chính sách; phải có kỹ năng giải quyết phản ánh, khiếu nại, tố cáo của công dân trong thực thi công vụ.
Năm là, quản trị quốc gia nhấn mạnh đến các trọng tâm dân chủ – pháp quyền. Tuy nhiên, thực tiễn còn nhiều khó khăn, hạn chế trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng thể chế hành chính dân chủ – pháp quyền, từ đó, chưa tác động mạnh tới việc kiểm soát có hiệu quả quyền lực hành chính cũng như bảo đảm quyền làm chủ và lợi ích của công dân.
Với tư cách là một nội dung quan trọng của cải cách hành chính, trong những năm qua, thể chế hành chính dân chủ – pháp quyền đã được hoàn thiện thêm một bước, từng bước xác lập nên khung khổ pháp luật cơ bản liên quan đến thực hiện quản lý nhà nước trên các lĩnh vực. Nhờ đó, hành vi của cán bộ, công chức, viên chứctrong cơ quan hành chính nhà nước từng bước được quy phạm hóa. Qua đó, góp phần quan trọng vào việc giám sát có hiệu quả sự vận hành của quyền lực hành chính, bảo đảm quyền và lợi ích của công dân. Hệ thống thể chế hành chính nhà nước vừa là căn cứ cho tổ chức, hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, vừa là công cụ để Nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực hành chính.
Cán bộ, công chức vừa là chủ thể trong tham mưu hoạch định, ban hành, triển khai thực hiện chính sách. Một mặt, cần tuân thủ pháp luật, mặt khác, phải chú trọng đến các chủ thể quản trị quốc gia khác, đó là doanh nghiệp, cộng đồng. Mọi hoạch định, ban hành, thực hiện chính sách không chỉ còn là độc quyền của Nhà nước mà cần phải phối hợp, tham khảo ý kiến của người dân, doanh nghiệp, đặc biệt, thực hiện triệt để cơ chế dân chủ theo tinh thần Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện pháp luật.
Điều này yêu cầu công tác quản lý nguồn nhân lực cần tiếp tục hoàn thiện thể chế hành chính để có hệ thống pháp luật tốt và đầy đủ nhằm điều chỉnh đối với chức năng hành chính, tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành và phương thức phục vụ của hành chính nhà nước. Trong quản lý nguồn nhân lực, cần chú trọng hơn cơ chế kiểm soát quyền lực đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tăng cường theo dõi, kiểm tra, giám sát quá trình thực thi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan hành chính nhà nước.
Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khu vực công đáp ứng quản trị quốc gia
Để nguồn nhân lực trong khu vực công đáp ứng những yêu cầu quản trị quốc gia, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, tập trung nâng cao nhận thức về sự chuyển đổi từ quản lý nhà nước sang quản trị quốc gia trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Trước hết là nhận thức những khó khăn, bất cập từ nền hành chính “mệnh lệnh, thư lại” sang nền hành chính công mới. Từ Nhà nước cồng kềnh, nhiều tầng nấc sang Nhà nước gọn nhẹ, thích ứng nhanh; từ điều hành nhà nước theo hướng một chiều, sang mô hình phục vụ, phối hợp, đồng thuận, vận hành trên môi trường điện tử. Cán bộ, công chức, viên chức nhận thức được vai trò của Nhà nước trong bối cảnh quản trị quốc gia; vai trò của doanh nghiệp, cộng đồng và sự hợp tác với các chủ thể ngoài nhà nước trong giải quyết các vấn đề của xã hội là xu hướng tất yếu hiện nay. Cũng cần nhận thức rõ “quản trị quốc gia” không phủ định khái niệm “quản lý nhà nước” mà bổ sung cho nhau trong việc mô tả các tình huống đa dạng trong thực tiễn hiện nay.
Hai là, quản trị quốc gia đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức với những tiêu chuẩn khác biệt nhằm đáp ứng môi trường công vụ mới, đó là tính chuyên nghiệp, tinh thần phục vụ, trách nhiệm, khả năng phối hợp, kết nối, giải trình và làm việc trong môi trường số. Để tạo ra sự thay đổi đó, cần có quá trình vận động, nâng cao nhận thức của đội ngũ này để sớm thích ứng, không ngừng nâng cao năng lực đáp ứng với yêu cầu thực thi công vụ của quản trị quốc gia.
Ba là, tiếp tục xây dựng quy hoạch cán bộ, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực khu vực công theo hướng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, có tính đến nhu cầu và khả năng phát triển gắn với các tiêu chí, yêu cầu của quản trị quốc gia. Làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng đúng cán bộ, công chức, viên chức là khâu hết sức quan trọng trong công tác cán bộ, mà trọng tâm xây dựng được thước đo cán bộ, công chức là hiệu quả công việc, thái độ phục vụ. Bố trí, sử dụng cán bộ phải căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ, công tác đặt ra. Kết hợp chặt chẽ việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ đủ tiêu chuẩn với việc kiên quyết đưa ra khỏi cương vị lãnh đạo, quản lý những cán bộ thiếu về phẩm chất và năng lực.
Bốn là, thực hiện tốt chế độ quản lý cán bộ, nhất là quản lý chất lượng chính trị; bảo vệ vững chắc chính trị nội bộ. Đây vừa là giải pháp vừa là yêu cầu kết hợp biểu dương khen thưởng đúng mức các cán bộ có thành tích với việc kiên quyết xử lý nghiêm những cán bộ thoái hóa biến chất, vi phạm pháp luật. Theo đó, “kiên quyết đấu tranh loại bỏ những phần tử suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; chống mọi biểu hiện chạy chức, chạy quyền, cục bộ. “Phát huy dân chủ, nâng cao ý thức trách nhiệm, nêu gương, tinh thần phục vụ Nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức. Sớm nghiên cứu, ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích và bảo vệ những tổ chức và cá nhân dám đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”7.
Năm là, đẩy mạnh công tác luân chuyển cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách trong thực tiễn, nhất là rèn luyện tính thực tiễn, gần dân.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức. Đây vừa là giải pháp, vừa là yêu cầu thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong từng khâu của công tác cán bộ, nhất là đối với người đứng đầu. “Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong công tác cán bộ, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực thi công vụ; nâng cao đạo đức, văn hóa, tính chuyên nghiệp của cán bộ. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực gắn với đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách để “không thể, không dám, không muốn, không cần tham nhũng”8. Theo đó, “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”9. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế gắn với lựa chọn, sàng lọc, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm.
Đổi mới “quản trị quốc gia” theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả là một trong những trọng tâm đột phá mà Đại hội XIII của Đảng ta đã xác định. Để thực hiện thành công việc đổi mới “quản trị quốc gia” rất cần những đổi mới cả về tư duy và hành động của cả hệ thống chính trị và hệ thống xã hội, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước. Tạo sự chuyển biến về chất lượng nguồn nhân lực trong khu vực công có ý nghĩa quyết định trong quá trình chuyển đổi mô hình quản lý nhà nước truyền thống sang quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả.