TS. Phạm Thị Thúy
Phân hiệu Học viện Hành chính Quốc gia tại TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết nêu tổng quan chung về người cao tuổi và một số vấn đề của người cao tuổi, phân tích cơ sở lý thuyết xây dựng chính sách dành cho người cao tuổi dựa trên quan điểm chất lượng cuộc sống. Tác giả nêu vài nét tổng quan về tình hình chính sách dành cho người cao tuổi tại Việt Nam, từ đó đánh giá thành công và hạn chế khi triển khai các chính sách; đồng thời, gợi ý một số khuyến nghị về chính sách dành cho người cao tuổi dựa trên quan điểm chất lượng cuộc sống.
Từ khóa: Người cao tuổi, chất lượng cuộc sống, chính sách, tiếp cận, khuyến nghị chính sách.
1. Đặt vấn đề
Năm 2022, theo dữ liệu của Tổng cục Thống kê, Việt Nam có 12.927.817 người từ 60 tuổi trở lên và chỉ số già hóa dân số là 54,1%. Kết quả số liệu này càng cho thấy khuynh hướng Việt Nam sẽ bắt đầu thời kỳ dân số già hóa vào năm 2036 đi theo tiệm cận với dự báo của Tổng cục Thống kê (năm 2020). Chính sách cho người cao tuổi sẽ trở thành vấn đề trọng điểm trong tất cả các khía cạnh về luật pháp cũng như chính sách trong tương lai. Trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt hai chương trình hành động Quốc gia về người cao tuổi giai đoạn 2012 – 2020 (Quyết định số 1781/QĐ-TTg ngày 22/11/2012) và giai đoạn 2021 – 2030 (Quyết định số 2156/QĐ-TTg ngày 21/12/2021).
Hai chương trình này đã có những ảnh hưởng nhất định trong chính sách về người cao tuổi trong giai đoạn này thông qua những nghị định, nghị quyết, quyết định liên quan đến chính sách dành cho người cao tuổi (trong giai đoạn 2012 – 2021) từ sau Luật Người cao tuổi năm 2009. Tuy nhiên, dù đã có những điều chỉnh, thay đổi liên tục nhưng vẫn còn những thách thức và hạn chế trong việc thực hiện chính sách dành cho người cao tuổi. Một trong những nguyên nhân của sự hạn chế của các chính sách trong giai đoạn trước chính là độ phủ của các chính sách liên quan đến người cao tuổi.
2. Người cao tuổi và một số vấn đề của người cao tuổi
Theo dự báo của Tổng cục Thống kê, người cao tuổi sẽ là một trong những nhóm trọng điểm về dân số. Chính vì thế, hiểu biết về người cao tuổi và một số vấn đề của người cao tuổi phải đối mặt là điều cần thiết. Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, người cao tuổi chính là những người nắm giữ sự khôn ngoan và hiểu biết để truyền lại cho thế hệ sau. Người cao tuổi còn là nhân tố để giữ gìn và bảo vệ những đặc trưng về lịch sử và văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, người cao tuổi cũng gặp một số vấn đề liên quan, như:
(1) Các vấn đề liên quan đến thể chất, hiện tượng lão hóa và lão suy sẽ ảnh hưởng đến những hoạt động hằng ngày. Những hoạt động cũng khó khăn hơn do sự suy giảm của thị giác, thính giác, sự dẻo dai của cơ bắp và trương lực cơ…
(2) Các vấn đề tâm lý về hưu và hội chứng về hưu làm thay đổi về mặt chức năng xã hội liên quan đến các mối quan hệ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp… Ngoài ra, việc chứng kiến cảnh những người cùng thế hệ (bạn bè, người phối ngẫu) mất đi cũng làm gia tăng tình trạng cô đơn. Người cao tuổi cũng phải đối mặt với vấn đề liên quan đến “khủng hoảng cuối đời”. Những khó khăn về khía cạnh tâm lý cũng có thể ảnh hưởng đến sự thay đổi ở những bộ phận cơ thể. Hay có thể làm cho người cao tuổi mắc một số rối loạn về mặt tinh thần như trầm cảm, lo âu…. Đồng thời, người cao tuổi cũng phải đối mặt với với cái chết và chuẩn bị cho cái chết của chính mình.
(3) Các vấn đề về môi trường sống. Đối với người cao tuổi thì việc chuyển đổi chỗ ở và môi trường sống tác động đến sự thay đổi thích nghi với môi trường chỗ ở mới có nhiều khó khăn. Hoặc trong điều kiện và bối cảnh văn hóa, người cao tuổi sẽ phải thích nghi với việc sống trong các trung tâm dành cho người cao tuổi.
3. Chính sách dành cho người cao tuổi dựa trên quan điểm chất lượng cuộc sống
Sự thay đổi liên tục của nền kinh tế và cách mạng công nghệ 4.0 dẫn đến rất nhiều những biến chuyển trong cuộc sống xã hội Việt Nam đương đại. Chất lượng cuộc sống được xem là một trong khái niệm quan trọng trong phát triển chính sách và an sinh xã hội. Chất lượng cuộc sống không chỉ đơn giản là mang tính xu thế tất yếu vì sự phát triển kinh tế tạo nên biến đổi đời sống con người. Chất lượng cuộc sống còn là sự phản ánh kết hợp giữa hệ thống xã hội vĩ mô và đặc điểm vị thế xã hội lên con người và những khía cạnh con người cá nhân, như: đặc tính cá nhân và sự quan tâm cá nhân.
Dựa trên tính chất này, một số nhà nghiên cứu cho rằng, chất lượng cuộc sống là một khái niệm chủ quan. Tuy nhiên, chất lượng cuộc sống lại là một khái niệm công bằng giữa sự tương tác và nhận thức của một cá nhân (Ziller, 1974). Theo Tổ chức Y tế thế giới – WHO (năm 2012), chất lượng cuộc sống được hiểu là “nhận thức của cá nhân về điều kiện cuộc sống, hiểu biết về bối cảnh văn hóa, hệ thống giá trị và trong mối quan hệ với người khác, những mong đợi và những tiêu chuẩn được xã hội thống nhất”.
Từ định nghĩa của WHO, chất lượng cuộc sống là một khái niệm trừu tượng và nó bao gồm rất nhiều lĩnh vực khác nhau để tạo nên chất lượng cuộc sống: sức khỏe thể chất, tình trạng tâm lý, mức độ độc lập của cá nhân, những mối quan hệ xã hội, niềm tin vào bối cảnh xã hội cụ thể hay môi trường thiên nhiên, hỗ trợ xã hội và nhận được hỗ trợ xã hội (Kahn. J et al, 2003). Như vậy, có thể thấy, nếu xây dựng chính sách theo hướng tiếp cận dựa trên quan điểm chất lượng cuộc sống thì các chính sách sẽ có độ phủ rộng và tiếp cận từ chính đối tượng của chính sách đó trước khi được quyết định. Đặc biệt là đối tượng người cao tuổi – đối tượng trọng điểm mới trong dân số của những năm tiếp theo khi khuynh hướng già hóa dân số của Việt Nam gia tăng. Bởi vì, không có chính sách nào có thể toàn diện và bao quát nếu bỏ qua các điều kiện chất lượng cuộc sống của người cao tuổi. Chính vì vậy, cần đặt khái niệm này vào trong trải nghiệm sống của người cao tuổi và cách thức mà người cao tuổi cảm nhận và diễn giải với cuộc sống của chính người cao tuổi trong mối quan hệ với những người khác.
Cần lưu ý rằng, tiếp cận dựa trên quan điểm chất lượng cuộc sống khác với tiếp cận dựa trên sự hài lòng với cuộc sống (life satisfaction). Sự hài lòng với cuộc sống được diễn tả như một chỉ báo cho chất lượng cuộc sống. Trong nghĩa này, chất lượng cuộc sống của người cao tuổi sẽ gắn sự hài lòng với cuộc sống trong hoạt động hằng ngày với chất lượng cuộc sống. Tuy nhiên, tiếp cận dựa trên quan điểm chất lượng cuộc sống nhấn mạnh rằng chất lượng cuộc sống ở người cao tuổi không chỉ là sự hài lòng với cuộc sống trong hoạt động hằng ngày mà còn ở sự tự tin, sự thoải mái với những chức năng sống ở giai đoạn người cao tuổi, cảm giác hài lòng về sự tham gia cũng như tự chủ trong đời sống hằng ngày.
Nghiên cứu của Gowzdz và Sousa-Poza (năm 2009) thì cho rằng, chất lượng cuộc sống ở người cao tuổi chính là những điều kiện về tâm lý và xã hội giúp cho người cao tuổi có thể chấp nhận được tiến trình lão hóa của cá nhân đó. Nghiên cứu này đồng thời cũng chỉ ra rằng cần phải tìm hiểu được những nhân tố tham gia vào sự thỏa mãn các khía cạnh tâm lý, xã hội giúp cho sự chấp nhận tiến trình lão hóa được cân bằng và hài lòng vời cuộc sống lúc về già.
Nghiên cứu của White và cộng sự (năm 2009) tiếp cận dựa trên quan điểm chất lượng cuộc sống của người cao tuổi cần tìm hiểu dựa trên trải nghiệm sống, đặc điểm nhân cách, kinh nghiệm quá khứ, hỗ trợ xã hội, mức độ hoạt động dựa trên sức khỏe thể lý và sức khỏe tâm thần và những nhân tố ảnh hưởng đến hạnh phúc và thoải mái trong giai đoạn tuổi già của người cao tuổi.
Nhìn chung, các nghiên cứu tiếp cận dựa trên chất lượng cuộc sống của người cao tuổi rất rộng lớn ở nhiều khía cạnh khác nhau bao gồm sự thoải mái về cuộc sống, sự chủ quan (trải nghiệm cuộc sống), nền an sinh xã hội – hỗ trợ xã hội, sự phát triển cá nhân ở giai đoạn lão niên, sự hài lòng với an sinh xã hội – hỗ trợ xã hội. Ứng dụng tiếp cận và làm rõ các khía cạnh khác nhau trong tiếp cận dựa trên chất lượng cuộc sống của người cao tuổi.
Nhóm nghiên cứu Gabriel & Bowling (năm 2004) đã phỏng vấn sâu người cao tuổi và có một số nhân tố cần lưu tâm khi xây dựng chính sách dành cho người cao tuổi bao gồm: mối quan hệ xã hội, nơi cư trú và hàng xóm, tình trạng sức khỏe tâm lý. Những hoạt động khác có thể được làm một mình bởi người cao tuổi, sức khỏe, vai trò xã hội và tài chính, sự độc lập và bối cảnh xã hội.
4. Tổng quan về tình hình chính sách dành cho người cao tuổi tại Việt Nam
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ đã có những quan tâm về chính sách dành cho người cao tuổi tại Việt Nam từ rất sớm bắt đầu từ Luật Người cao tuổi năm 2009 và tiếp tục được làm rõ thông qua các thông tư, nghị định, quyết định để cụ thể hóa liên tục theo từng năm và theo xu thế tình hình chung:
Năm | Tên văn bản | Nội dung chính |
2009 | Luật Người cao tuổi (Luật số 39/2009/QH12 của Quốc hội). | Luật quy định trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã hội trong việc phụng dưỡng, chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi. |
2011 | Thông tư số 35/2011/TT-BYT ngày 15/10/2011 của Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. | Thông tư này quy định về quyền được chăm sóc sức khỏe ban đầu của người cao tuổi, bao gồm vai trò quản lý của Trạm Y tế xã, việc tổ chức kiểm tra sức khỏe định kỳ và trách nhiệm đưa người cao tuổi đến cơ sở y tế nếu cần. Hơn nữa, Nhà nước thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người cao tuổi tại nơi cư trú của họ. |
2012 | Quyết định số 1781/2012/QĐ-TTg ngày 22/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi tại Việt Nam giai đoạn 2012- 2020. | Mục đích chính của chương trình này là nâng cao chất lượng cuộc sống của người cao tuổi, phát huy vai trò của người cao tuổi trong xã hội và bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của người cao tuổi. |
2013 | Nghị định số 36/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội. | Theo Nghị định, người cao tuổi thuộc diện bảo trợ xã hội là những người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn, không có người phụng dưỡng hoặc không có khả năng tự chăm sóc bản thân. Mức chuẩn trợ giúp xã hội áp dụng từ ngày 01/01/2014 là 270.000 đồng/tháng. Nguồn kinh phí trợ giúp xã hội được bố trí từ ngân sách nhà nước và huy động từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Cơ quan quản lý kinh phí trợ giúp xã hội là Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cấp trung ương và Sở Lao động – Thương binh và Xã hội cấp tỉnh. |
2014 | Nghị định số 59/2014/NĐ-CP ngày 16/6/2014 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường. | Chính sách thuế ưu đãi cho tổ chức cung cấp dịch vụ cho người cao tuổi. Quy định ưu đãi về thuê cơ sở vật chất, thuê đất, thuế, lệ phí dành cho các dịch vụ cho người cao tuổi. |
2017 | Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới. | Đây là tài liệu quan trọng trong định hướng quốc gia trong việc bảo đảm phát triển bền vững và cân đối, thích ứng với biến đổi dân số và thúc đẩy công tác dân số tại Việt Nam. Các hoạt động trọng tâm gồm công tác dân số, quản lý dân số trong bối cảnh đổi mới, tích hợp dân số vào phát triển quốc gia, tăng cường thông tin giáo dục dân số và sử dụng công nghệ thông tin. |
2017 | Nghị quyết số 137/NQ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ ban hành Chương trinhg hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới. | Nội dung nghị quyết này nhấn mạnh việc thúc đẩy sử dụng công nghệ thông tin trong công tác dân số và quản lý dân số thông qua ứng dụng khoa học – công nghệ. Các đề xuất gồm: cải thiện quản lý dân số, bảo đảm tài nguyên và môi trường phù hợp với quá trình phát triển quốc gia; tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội, đóng góp vào sự thịnh vượng của đất nước. |
2018 | Thông tư số 96/2018/TT-BTC ngày 18/10/2018 của Bộ Tài chính về quản lý và sử dụng kinh phí chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người cao tuổi tại nơi cư trú; chúc thọ, mừng thọ, ưu đãi tín dụng và biểu dương, khen thưởng người cao tuổi. | Trường hợp người cao tuổi trực tiếp sản xuất – kinh doanh có nhu cầu vay vốn thuộc đối tượng cho vay từ Quỹ quốc gia về việc làm, được xem xét vay vốn theo chương trình hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm tại Ngân hàng Chính sách xã hội. Nguồn vốn cho vay từ Quỹ quốc gia về việc làm theo kế hoạch hằng năm của địa phương. Theo đó, mức vay được nâng tối đa đối với cơ sở sản xuất – kinh doanh lên tới 2 tỷ đồng; đối với người lao động, mức vay tối đa là 100 triệu đồng. Mức vay cụ thể do Ngân hàng Chính sách xã hội và đối tượng vay vốn thỏa thuận căn cứ vào nguồn vốn, chu kỳ sản xuất – kinh doanh và khả năng trả nợ của đối tượng vay vốn; thời hạn vay vốn tối đa lên tới 120 tháng. Bên cạnh đó, mức vay cần phải có tài sản bảo đảm tiền vay đã được nâng lên 100 triệu đồng thay vì 50 triệu đồng như trước. Như vậy, người cao tuổi cũng có thể vay vốn tín dụng ưu đãi từ hai nguồn vốn thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội và Quỹ quốc gia về việc làm để đầu tư phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống. |
2019 | Nghị định số 74/2019/NĐ-CP ngày 23/9/2019 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 61/2015/NĐ-CP. | Theo văn bản này, người cao tuổi cũng có thể vay vốn tín dụng ưu đãi từ hai nguồn vốn thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội và Quỹ quốc gia về việc làm để đầu tư phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống. |
2019 | Quyết định số 1679/QĐ-TTg ngày 22/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030. | Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 tập trung vào mục tiêu quản lý dân số và phát triển bền vững. Trọng tâm của chiến lược là thúc đẩy quản lý dân số theo hướng hiệu quả, tích hợp dân số vào phát triển quốc gia, tạo điều kiện tối ưu cho người dân tham gia vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm cân đối giữa dân số, tài nguyên và môi trường. Chiến lược này còn nhấn mạnh việc tăng cường kiến thức và nhận thức về quản lý dân số, thúc đẩy sử dụng công nghệ thông tin trong công tác dân số và xây dựng môi trường thân thiện với dân số góp phần vào sự phát triển bền vững và thịnh vượng của Việt Nam trong tương lai. |
2020 | Quyết định số 1579/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đến năm 2030. | Mục tiêu của chương trình là chăm sóc, nâng cao sức khỏe người cao tuổi, bảo đảm thích ứng với già hóa dân số, góp phần thực hiện thành công Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030. Chương trình gồm 6 nội dung chính, bao gồm: (1) Tăng cường lãnh đạo, quản lý nhà nước về chăm sóc sức khỏe người cao tuổi; (2) Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hành động của toàn xã hội trong chăm sóc sức khỏe người cao tuổi; (3) Phát triển mạng lưới cơ sở y tế chăm sóc sức khỏe người cao tuổi; (4) Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và quản lý các bệnh mãn tính cho người cao tuổi; (5) Phát triển môi trường sống thân thiện với người cao tuổi; (6) Tăng cường nghiên cứu khoa học và áp dụng công nghệ tiên tiến trong chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. |
2021 | Quyết định 2156/QĐ-TTg ngày 21/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động Quốc gia về người cao tuổi giai đoạn 2021-2030. | Mục tiêu chương trình nhằm phát huy tiềm năng, vai trò, kinh nghiệm, tri thức và quyền lợi của người cao tuổi trong xã hội; nâng cao sức khỏe, chất lượng đời sống và dịch vụ chăm sóc xã hội cho người cao tuổi; thích ứng với tình trạng già hóa dân số. Các mục tiêu cụ thể gồm: tỷ lệ người cao tuổi được khám sức khỏe, được quản lý sức khỏe, được tham gia các hoạt động xã hội, được hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản. |
Hiện cả nước có khoảng hơn 5,4 triệu người cao tuổi hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng; 15 triệu người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế… Đến nay, 14 tỉnh, thành phố nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội; 32 tỉnh, thành phố mở rộng đối tượng là người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn, sống cô đơn được hưởng chính sách trợ giúp xã hội. Công tác bảo vệ, chăm sóc người cao tuổi đạt nhiều kết quả thiết thực, như: chúc thọ, mừng thọ cho trên 1,2 triệu người; khám sức khỏe định kỳ cho 4,5 triệu người, lập hồ sơ theo dõi sức khỏe 3,5 triệu người; tổ chức gần 80.000 câu lạc bộ; 9.950 xã/phường/thị trấn lập Quỹ toàn dân chăm sóc người cao tuổi và Quỹ chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi cơ sở. Hiện có trên 7 triệu người cao tuổi trực tiếp tham gia lao động, sản xuất, kinh doanh; gần 734.000 người tham gia công tác Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể…1
Bên cạnh những thành tựu tích cực đó, chính sách dành cho người cao tuổi tại Việt Nam còn một số những hạn chế để bảo đảm chất lượng cuộc sống, như: chính sách trợ giúp xã hội đối với người cao tuổi còn hạn chế, ở mức thấp. Tỷ lệ người cao tuổi thuộc hộ nghèo 3,6%, cận nghèo là 11,6%, cao hơn bình quân chung cả nước. Một số địa phương gặp khó khăn trong bố trí nguồn kinh phí khám, chữa bệnh định kỳ tại cơ sở cho người cao tuổi; chưa quan tâm, bố trí khu vui chơi, giải trí, sinh hoạt cộng đồng…2
Các chính sách hiện có chủ yếu tập trung vào các khung chính sách liên quan đến khám, chữa bệnh và phát triển mạng lưới khám, chữa bệnh dành cho người cao tuổi, chưa chú ý các khía cạnh nhu cầu khác của người cao tuổi. Mặc dù đã có khung chính sách liên quan đến sử dụng công nghệ để phục vụ lợi ích đời sống của người cao tuổi, những định hướng và quy định hướng dẫn triển khai cụ thể cũng như quy định hướng dẫn giáo dục về công nghệ trong đời sống vẫn chưa được xây dựng và đề giúp cho người cao tuổi có thể sử dụng công nghệ. Thiếu những quy định hướng dẫn trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe tinh thần và mối quan hệ đời sống xã hội. Thiếu vắng những chính sách quy định về việc bảo vệ quyền lợi tham gia lao động của người cao tuổi sau tuổi về hưu vì tháp tuổi dân số sẽ già hóa và lực lượng người cao tuổi cũng sẽ là một thành phần lao động chủ yếu trong tương lai gần…
5. Khuyến nghị về chính sách dành cho người cao tuổi
Chính sách dành cho người cao tuổi không thể bỏ qua chính chất lượng cuộc sống của người cao tuổi. Chính sách dành cho người cao tuổi cần lưu ý đến những khía cạnh liên quan đến chất lượng cuộc sống từ tiếng nói của người cao tuổi đã được nghiên cứu của Gabriel & Bowling (năm 2004) xác định.
(1) Mối quan hệ xã hội của người cao tuổi với gia đình, bạn bè, hàng xóm và những mối quan hệ công việc.
Chính sách đối với người cao tuổi không chỉ đơn giản là việc bảo trợ cho mức sống tối thiểu của người cao tuổi trong cuộc sống hiện tại. Chính sách khi được xây dựng không nên bỏ qua những điều kiện để bảo đảm các mối quan hệ của người cao tuổi được duy trì và phát triển lành mạnh. Mối quan hệ đối với người cao tuổi không chỉ đơn giản là được chăm sóc và không bị ngược đãi về mặt thể lý. Chính sách dành cho người cao tuổi cũng cần xem xét những khía cạnh hỗ trợ xã hội liên quan đến việc nâng đỡ cảm xúc của người cao tuổi. Vì thế, những nhà xây dựng chính sách cần lưu tâm đến việc hỗ trợ xã hội trong cả định hướng khung chính sách liên quan đến những vấn đề khác, như: tuyển dụng và quyền lợi của người cao tuổi khi tham gia lao động.
Việt Nam sẽ bước vào thời kỳ già hóa dân số và lực lượng người cao tuổi sẽ tiếp tục thông qua các chính sách mở rộng độ tuổi để tham gia vào thị trường lao động là một điều không thể tránh khỏi. Chính vì thế, các mối quan hệ của người cao tuổi với gia đình, bạn bè và các mối quan hệ khác vẫn cần phải tiếp tục duy trì và phát triển.
(2) Nơi cư trú và hàng xóm.
Nơi cư trú và hàng xóm là một trong những vốn xã hội cơ bản của người cao tuổi. Nơi cư trú và hàng xóm phải cung cấp được sự bảo đảm an toàn. Đặc biệt hơn, hàng xóm cần có sự quan tâm và chú ý đến người cao tuổi và có thể hỗ trợ người cao tuổi nếu họ cần. Nơi cư trú và hàng xóm cũng cần đáp ứng được thiết kế an toàn để người cao tuổi có thể di chuyển thuận lợi và bảo đảm có được đầy đủ những dịch vụ an sinh tối thiểu và cần thiết, như: nơi trao đổi buôn bán nhu yếu phẩm cuộc sống, các dịch vụ về sức khỏe, không gian giải trí, đèn đường, cảnh sát và khu vực học tập cộng đồng.
Chính vì thế, khi xây dựng chính sách dành cho người cao tuổi, những nhà xây dựng chính sách dành cho người cao tuổi cần lưu tâm đến tính chất tiện dụng (used-space) của không gian đối với người cao tuổi để định hướng trong việc xây dựng và thiết kế nơi cư trú và không gian an toàn cho người cao tuổi về mặt dịch vụ cũng như an toàn về khía cạnh tâm lý (hàng xóm).
(3) Sức khỏe.
Sức khỏe là một trong những điều kiện cơ bản tạo nên chất lượng cuộc sống mà hầu hết người cao tuổi dựa vào để đánh giá. người cao tuổi thường mong rằng mình luôn giữ được sức khỏe tốt và có thể cải thiện tình trạng sức khỏe của mình khi có những vấn đề liên quan đến sức khỏe. Chính sách dành cho người cao tuổi cần lưu tâm đến sức khỏe như là một yếu tố cần được chú ý trong khung chính sách dành cho người cao tuổi.
Yếu tố về sức khỏe cho người cao tuổi cần thể hiện được hệ thống an sinh về sức khỏe và y tế dành cho người cao tuổi bao gồm việc tầm soát, khám chữa bệnh, các chi phi y tế và chăm sóc y tế. Ngoài ra, chính sách dành cho người cao tuổi liên quan đến khía cạnh y tế cũng cần lưu tâm đến những hoạt động mang tính phòng ngừa và bảo vệ sức khỏe cũng như quy định về cách thức tạo điều kiện liên quan đến ưu tiên dành cho người cao tuổi trong phạm vi chăm sóc y tế.
(4) Vị thế xã hội và tài chính.
Bên cạnh yếu tố về sức khỏe, tài chính cũng là yếu tố tạo nên sự thoải mái về chất lượng cuộc sống. Việc tài chính bảo đảm cho người cao tuổi để người cao tuổi có thể bảo đảm những chi phí tối thiểu cũng như không phải lo lắng về khía cạnh tài chính trong cuộc sống là điều kiện tối thiểu. Đi xa hơn, người cao tuổi cũng cần bảo đảm có một nguồn tiền sẵn có để phòng ngừa những trường hợp không mong muốn. Vì thế, khi xây dựng chính sách cần phải lưu ý đến đặc điểm này của người cao tuổi để từ đó có thể xây dựng chính sách liên quan quỹ bảo hiểm, quỹ phúc lợi an sinh phù hợp với đặc điểm của người cao tuổi.
Ngoài ra, việc già hóa dân số sẽ diễn ra trong tương lai gần, việc bắt đầu xây dựng những chính sách và luật pháp liên quan đến tuyển dụng và sử dụng lao động là người cao tuổi là điều hết sức cần thiết. Vì những chính sách này sẽ bảo đảm vị thế xã hội của người cao tuổi trong tham gia lao động thông qua chế độ tiền lương và các chế độ khác nhằm xóa bỏ tính chất bất bình đẳng vị thế xã hội giữa lao động trẻ và lao động là người cao tuổi.
(5) Những hoạt động tự thân (tự làm) và những hoạt động chung.
Những hoạt động tự thân và hoạt động chung sẽ giúp cho người cao tuổi “giữ được bận rộn” cho chính mình trước tình trạng phải giảm bớt các nhiệm vụ liên quan đến công việc. Điều này cũng góp phần bảo đảm được sự phát triển về sức khỏe tâm lý của người cao tuổi. Khi người cao tuổi còn có thể tham gia những hoạt động tự thân hay hoạt động chung, họ sẽ cảm thấy còn có giá trị cống hiến và còn phát triển. Từ đó, giảm bớt “hội chứng về hưu” nơi người cao tuổi.
Chính sách về người cao tuổi cũng cần cung cấp những định hướng về lao động tiếp tục sử dụng lao động là người cao tuổi hoặc có lộ trình giúp người cao tuổi chuẩn bị tinh thần về hưu tránh tình trạng “hội chứng về hưu”. Đồng thời, chính sách cũng cần định hướng cho việc tham gia những hoạt động của người cao tuổi dễ dàng và có thể tiếp cận được (cách thức đơn giản để người cao tuổi di chuyển bằng phương tiện công cộng, cách thức thanh toán và sử dụng công nghệ thích hợp với điều kiện thể chất của người cao tuổi….). Những quy định chế tài về những hành vi làm hạn chế quyền tham gia của người cao tuổi trong những hoạt động chung cũng cần được quan tâm.
(6) Sự độc lập và bối cảnh xã hội (chính sách, an sinh).
Bên cạnh những yếu tố liên quan đến chăm sóc bởi các mối quan hệ xã hội như gia đình, bạn bè, hàng xóm hay tổ chức lao động, người cao tuổi cũng cần một sự độc lập nhất định. Sự độc lập biểu hiện nơi người cao tuổi chính là việc tránh sự phụ thuộc quá mức vào những hỗ trợ từ các nguồn lực xung quanh vì những định kiến hay những cảm quan bình thường liên quan đến người cao tuổi như tuổi tác, không thể tham gia các hoạt động vì lý do không bảo đảm được sức khỏe hay như những vấn đề liên quan ảnh hưởng đến sự độc lập của người cao tuổi (khi họ chưa cần đến sự trợ giúp) nhưng vì vấn đề tuổi tác và định kiến…
Hoạch định chính sách cũng cần “cân bằng” giữa những hỗ trợ để bảo đảm được công bằng cho người cao tuổi, đồng thời cũng cần quy định về luật liên quan đến kỳ thị người cao tuổi và tôn trọng sự độc lập của người cao tuổi (khi họ không cần trợ giúp) trong chính sách.
6. Kết luận
Các vấn đề đặt ra đối với người cao tuổi ngày càng trở nên cấp thiết và quan trọng, do đó, về mặt chính sách, chúng ta cần có tầm nhìn xa hơn về chất lượng cuộc sống, sức khỏe và các vấn đề xã hội đối với người cao tuổi. Điều đó không chỉ thể hiện tính ưu việt của chế độ mà còn là bước chuẩn bị dài hạn để bảo đảm chất lượng dân số bền vững về cơ cấu, độ tuổi và địa bàn sinh sống.
Cách tiếp cận từ chất lượng cuộc sống có tính lý luận bao quát cao. Việc sử dụng tiếp cận này có thể không quy định được chính xác về mặt chính sách nhưng là khung tham chiếu để chính người xây dựng chính sách và thực thi chính sách cần lưu tâm và bảo đảm được tính bao quát của chính sách, tránh những tình trạng khi xây dựng chính sách dành cho người cao tuổi thiếu cân bằng và không xuất phát từ tiếng nói của người cao tuổi thông qua chính chất lượng cuộc sống mà người cao tuổi mong đợi.
Chú thích:
1, 2. Trần Thị Anh Thư (2023). Già hóa dân số ở Việt Nam: Xu hướng và chính sách tương ứng. Giải pháp chính sách nhằm thích ứng với già hóa dân số ở Việt Nam. Phân hiệu Học viện Hành chính Quốc gia tại TP. Hồ Chí Minh.
Tài liệu tham khảo:
1. Huỳnh Minh Hiền (2019). Công tác xã hội với người cao tuổi. Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh.
2. Diệp Trương (2024). Cần tầm nhìn xa khi thực hiện chính sách đối với người cao tuổi. https://baotintuc.vn/chinh-tri/can-tam-nhin-xa-khi-thuc-hien-chinh-sach-doi-voi-nguoi-cao-tuoi-20240312113735854.htm.
3. World Health Organization (2012). World Health Day 2012: Ageing and Health: Toolkit for Event Organizer. Instruments WHOQOL-SRPB Field-Test Instrument.
4. Gwozdz, W. and Sousa-Poza, A. (2009). Ageing, health and life satisfaction of the oldest old: an analysis for Germany. Social Indicators Research, vol. 97, no. 3, pp. 397 – 417.
5. Kahn, J.; Hessling, R. and Russell, D. (2003). Social support, health, and well-being among the elderly: what is the role of negative affectivity? Personality and Individual Differences, vol. 35, no. 1, pp. 5 – 17.
6. White, A.; Philogene, G.; Fine, L.; and Sinha, L. (2009). Social support and self-reported health status of older adults in the United States. American Journal of Public Health, vol. 99, no. 10, pp. 1872 – 1878.
7. Gabriel, Z. and Bowling, A. (2004). Quality of life from the perspectives of older people. Ageing and Society, 24 (5), 675 – 691.
8. Ziller, R. (1974). Self-other orientation and quality of life. Social Indicators Research, 1, 301 – 27.