Mô hình quản trị địa phương tại Việt Nam – Thực trạng và một số định hướng cải cách

TS. Nguyễn Văn Quang
Học viện Chính trị khu vực III

(Quanlynhanuoc.vn) – Quản trị địa phương ở Việt Nam được tổ chức theo mô hình tập trung dân chủ, gồm các cấp hành chính từ tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương đến huyện, xã. Mỗi cấp đều có Ủy ban nhân dân làm cơ quan hành chính nhà nước và Hội đồng nhân dân làm cơ quan quyền lực nhà nước đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân địa phương. Các cấp chính quyền địa phương chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra của cấp trên. Mặc dù đã có nhiều cải tiến nhằm nâng cao hiệu quả quản trị địa phương, nhưng vẫn còn khá nhiều hạn chế cần có biện pháp khắc phục.

Từ khóa: Quản trị địa phương; thực trạng; định hướng; mô hình; Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Quản trị (governance) là một hoạt động thường nhật, được tiến hành ở nhiều loại hình tổ chức khác nhau, có thể bắt gặp hoạt động này ở một tổ chức nhỏ, một công ty cho đến một địa phương hay một chính phủ, quốc gia. Điều đó cho thấy, quản trị luôn là một yếu tố không thể thiếu trong đời sống xã hội. Quản trị được biết đến như là một quyền hạn của một cá nhân, nhóm, tổ chức nào đó, có thể thiết lập những quy tắc, quy định; đồng thời hướng dẫn, dẫn dắt, bắt buộc hay kiểm soát các cá nhân, tổ chức khác phải thực hiện theo. Trong thực tế, quản trị là thuật ngữ chủ yếu gắn với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước (quản trị quốc gia/quản trị nhà nước)1. Đối với quản trị quốc gia, có nghiên cứu chia thành quản trị ở cấp độ toàn quốc (national governance) và quản trị ở cấp địa phương (local governance), trong đó mặc dù chia sẻ những nguyên tắc chung nhưng ở mỗi cấp lại có một số đặc trưng riêng2.

2. Mô hình quản trị địa phương

Theo UNDP, quản trị ở cấp địa phương có những vai trò rất quan trọng, như: 1) Địa phương chủ động trong xây dựng năng lực địa phương để dự đoán và ứng phó với những thách thức phát triển mới nổi như di cư, đô thị hóa và suy thoái môi trường. 2) Khuyến khích sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội, khu vực tư nhân và công chúng trong quá trình ra quyết định ở địa phương và kiến nghị với trung ương. 3) Cho phép địa phương lập kế hoạch và giám sát dựa trên dữ liệu và bằng chứng một cách hiệu quả, sáng tạo ở cấp địa phương. 4) Giúp chính quyền trung ương xây dựng chiến lược, kế hoạch phân cấp quyền lực cho chính quyền địa phương3.

Mô hình quản trị địa phương là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực quản lý nhà nước và phát triển địa phương. Tuy nhiên, có nhiều quan niệm khác nhau về mô hình quản trị địa phương dựa trên các tiếp cận lý thuyết và thực tiễn khác nhau.

Theo quan điểm truyền thống, mô hình quản trị địa phương thường được hiểu là hệ thống tổ chức các cơ quan hành chính nhà nước ở cấp địa phương với các nhiệm vụ và quyền hạn nhất định. Quan niệm này tập trung vào khía cạnh pháp lý và cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương. Điển hình là mô hình quản trị địa phương tập trung dân chủ ở Việt Nam với các cơ quan chính quyền như Ủy ban nhân dân (UBND) và Hội đồng nhân dân (HĐND) từ cấp tỉnh đến xã.

Quan niệm khác xem quản trị địa phương là một quá trình phối hợp, tương tác giữa các bên liên quan để giải quyết các vấn đề của cộng đồng địa phương. Theo quan niệm này, mô hình quản trị địa phương không chỉ bao gồm các cơ quan chính quyền mà còn có sự tham gia của các tổ chức xã hội, khu vực tư nhân và cộng đồng dân cư. Mô hình quản trị địa phương theo cách tiếp cận này nhấn mạnh tính đa dạng, linh hoạt và sự phối hợp giữa các bên liên quan.

Ngoài ra, có quan niệm coi quản trị địa phương là một phần của quá trình phân cấp, phân quyền từ trung ương xuống địa phương. Theo đó, mô hình quản trị địa phương cần bảo đảm nguyên tắc phân quyền, trao quyền tự chủ cho chính quyền địa phương trong việc ra quyết định và quản lý các vấn đề của địa phương. Điều này thúc đẩy sự sáng tạo, hiệu quả và trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương.

Cuối cùng, một số quan niệm hiện đại hơn xem quản trị địa phương là một phần của quản trị công hiện đại, áp dụng các nguyên lý quản trị tốt như minh bạch, trách nhiệm giải trình, hiệu quả, công bằng và sự tham gia. Mô hình quản trị địa phương theo quan niệm này cần đáp ứng các tiêu chí quản trị tốt, bảo đảm cung cấp dịch vụ công chất lượng cao cho người dân và phát triển bền vững địa phương.

Các quan niệm khác nhau về mô hình quản trị địa phương phản ánh sự đa dạng trong cách tiếp cận vấn đề này. Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia cần xem xét, lựa chọn và thiết kế mô hình quản trị địa phương phù hợp với bối cảnh, truyền thống và mục tiêu phát triển của mình.

3. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong mô hình quản trị địa phương ở nước ta

3.1. Những kết quả đạt được

Thứ nhất, mô hình quản trị địa phương tại Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng và góp phần to lớn vào thành quả phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong những thập kỷ qua. Với sự phân cấp quản lý vừa bảo đảm tính thống nhất từ Trung ương, vừa khuyến khích sự chủ động, sáng tạo ở địa phương, chính quyền các cấp đã khai thác và phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng miền. Chính quyền địa phương đã triển khai có hiệu quả các chủ trương, chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển khu vực kinh tế tư nhân, thu hút đầu tư, tạo việc làm và nâng cao đời sống Nhân dân.

Nhiều địa phương đã chủ động xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển phù hợp với điều kiện thực tế, khai thác tối đa tiềm năng lợi thế sẵn có về tài nguyên, lao động, vị trí địa lý. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cũng đã chú trọng phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa; thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Nhiều chính sách, biện pháp giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cũng được các địa phương triển khai đồng bộ.

Thứ hai, trong quá trình phát triển của đất nước, chính quyền địa phương các cấp ở Việt Nam đã từng bước được tăng cường năng lực, đáp ứng ngày càng tốt hơn những yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của từng địa phương và cả nước. Trước hết, về mặt nhân lực, đội ngũ cán bộ, công chức ở các cấp chính quyền địa phương đã được bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực quản lý thông qua các chương trình đào tạo, tập huấn chuyên sâu. Điều này giúp nâng cao khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng trong công tác tham mưu, hoạch định chính sách, quản lý điều hành. Về mặt cơ chế, các địa phương ngày càng được phân cấp, phân quyền rộng hơn trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến sự phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương. 

Chính quyền địa phương có nhiều quyền chủ động hơn trong việc xây dựng kế hoạch, bố trí nguồn lực phù hợp với điều kiện thực tế. Bên cạnh đó, nguồn lực tài chính cho các địa phương cũng được điều chỉnh, bổ sung thường xuyên để đáp ứng đầy đủ hơn các nhiệm vụ của địa phương. Nhiều chính sách ưu đãi về đầu tư, phát triển công nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng cũng được ban hành để tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương phát triển. Nhờ được tăng cường năng lực đáng kể, chính quyền địa phương đã thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công cơ bản cho người dân, thu hút đầu tư, tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn. Đây là tiền đề để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa vai trò quản trị của chính quyền địa phương trong giai đoạn phát triển mới.

Thứ ba, phân cấp quản lý giữa các cấp chính quyền địa phương tại Việt Nam ngày càng được thực hiện một cách rõ ràng và hiệu quả hơn, góp phần bảo đảm tính thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo của trung ương đối với địa phương. Trước hết, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp chính quyền địa phương. Việc phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý nhà nước và cung ứng dịch vụ công giữa trung ương với địa phương, giữa các cấp địa phương với nhau đã được quy định cụ thể, chi tiết hơn nhằm tránh chồng chéo, trùng lắp. 

Các cơ quan trung ương ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể để định hướng, chỉ đạo hoạt động của chính quyền địa phương trong từng lĩnh vực quản lý, qua đó, góp phần thống nhất công tác chỉ đạo, điều hành của trung ương đối với địa phương trong cả nước. Bên cạnh đó, cơ chế phân cấp nguồn lực cho các địa phương cũng được thực hiện chặt chẽ. Các địa phương được giao quyền tự chủ cao hơn trong sử dụng nguồn lực nhưng vẫn phải chịu sự kiểm tra, giám sát của cấp trên. Nhờ sự phân cấp rõ ràng, chính quyền địa phương đã chủ động, linh hoạt hơn trong điều hành, đồng thời vẫn phải tuân thủ nghiêm các chủ trương, đường lối lãnh đạo của Trung ương. Điều này góp phần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất từ Trung ương trong quá trình phân cấp quản lý cho địa phương.

3.2. Những hạn chế và một số vấn đề đặt ra

Một là, việc phân cấp và phân quyền chưa thực sự rõ ràng, thiếu cơ chế giám sát hiệu quả. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong việc đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương nhưng thực tế vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định trong công khai, minh bạch của quá trình này, đồng thời thiếu một cơ chế giám sát hiệu quả. 

Thực tế cho thấy, mặc dù đã có nhiều văn bản pháp lý quy định về phân công, phân cấp nhưng việc thực thi vẫn chưa đồng bộ, còn tình trạng chồng chéo, mơ hồ trong phân định nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính quyền. Một số lĩnh vực quản lý, giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp địa phương vẫn chưa rõ ranh giới, dẫn đến xung đột, chồng chéo thẩm quyền. Bên cạnh đó, mặc dù địa phương được giao nhiều quyền hạn hơn nhưng việc đi kèm với nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính vẫn chưa thực sự hợp lý. Nhiều địa phương vẫn phụ thuộc lớn vào ngân sách cấp trên, gây khó khăn trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao. 

Vấn đề giám sát, kiểm tra hoạt động của chính quyền địa phương cũng chưa thực sự hiệu quả. Cơ chế giám sát của HĐND đối với UBND cùng cấp vẫn còn nhiều bất cập. Việc thực hiện quyền giám sát của cơ quan dân cử đối với chính quyền cấp dưới chưa được phát huy đầy đủ. Hệ thống thanh tra, kiểm tra đôi khi vẫn mang tính hình thức, chưa thực sự nghiêm minh. Những hạn chế này đã dẫn đến tình trạng chính quyền một số địa phương lạm quyền, thiếu trách nhiệm giải trình, gây bức xúc trong dư luận. Vì vậy, cần phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhằm xây dựng cơ chế phân cấp rõ ràng, minh bạch cùng hệ thống giám sát hiệu quả ở địa phương.

Hai là, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức địa phương còn hạn chế. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nhưng thực tế cho thấy năng lực của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức tại các địa phương vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện nay. Trước hết, về trình độ chuyên môn, một tỷ lệ đáng kể cán bộ, công chức tại địa phương vẫn chưa đạt chuẩn theo quy định. Nhiều người chưa qua đào tạo cơ bản về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, kỹ năng nghiệp vụ công vụ. Trình độ ngoại ngữ, tin học rất hạn chế, khó đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. 

Về năng lực thực thi công vụ, bộ phận này thường gặp khó khăn trong triển khai các nhiệm vụ mới, phức tạp theo yêu cầu cải cách hành chính. Một số người chưa chủ động, sáng tạo, thiếu kỹ năng phân tích, dự báo, hoạch định chính sách. Năng lực lãnh đạo, điều hành và làm việc nhóm cũng là vấn đề cần quan tâm. Yếu tố đạo đức công vụ, ý thức trách nhiệm của đội ngũ này thời gian qua cũng đã bộc lộ nhiều bất cập. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức địa phương tham nhũng, lãng phí, thiếu minh bạch trong hoạt động công vụ, làm giảm lòng tin của người dân.

Nguyên nhân của tình trạng này bao gồm các vấn đề như công tác tuyển dụng chưa thực sự công bằng, khách quan; chính sách đãi ngộ, thu nhập chưa thực sự hấp dẫn; công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa đáp ứng yêu cầu; cơ chế kiểm tra, giám sát chưa nghiêm túc. Do đó, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và ở địa phương nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm đáp ứng yêu cầu quản trị hiệu quả trong giai đoạn phát triển mới.

Ba là, nguồn lực tài chính và nhân lực phân bổ chưa phù hợp giữa các vùng miền, địa phương. Vấn đề phân bổ nguồn lực tài chính và nhân lực giữa các vùng miền, địa phương ở Việt Nam vẫn chưa thực sự hợp lý và phù hợp với thực tế là một trong những khó khăn, thách thức lớn đối với quản trị địa phương hiện nay. Về nguồn lực tài chính, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong cơ chế phân bổ ngân sách nhưng thực tế vẫn tồn tại nhiều bất cập. Khoảng cách về nguồn thu ngân sách giữa các địa phương phát triển và kém phát triển là rất lớn. Nhiều địa phương nghèo, vùng sâu, vùng xa, miền núi vẫn phụ thuộc phần lớn vào nguồn từ ngân sách Trung ương trong khi nhu cầu chi ngân sách lại rất cao. Bên cạnh đó, việc phân bổ vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước cũng chưa thực sự công bằng và hợp lý. Nhiều địa phương chỉ tập trung nhiều vào khu vực đô thị, bỏ quên vùng nông thôn, làm gia tăng khoảng cách phát triển. 

Về nguồn nhân lực, tình trạng “chảy máu chất xám” vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đội ngũ cán bộ, công chức giỏi, có trình độ cao thường tập trung về các thành phố lớn, các trung tâm phát triển. Trong khi đó, nhiều địa phương khác gặp nhiều khó khăn trong thu hút, giữ chân nhân lực chất lượng cao. Sự mất cân đối về phân bổ nguồn lực đã làm giảm hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương. Nhiều vùng miền, địa phương khó khăn chậm phát triển, tình trạng đói nghèo, thiếu thốn vẫn còn tồn tại. Vì vậy, cần có các giải pháp phù hợp để điều chỉnh, bổ sung nguồn lực cho các địa phương một cách phân bổ hợp lý, công bằng hơn.

Bốn là, tính minh bạch, trách nhiệm giải trình còn nhiều bất cập. Trước hết, về minh bạch thông tin, cho đến nay vẫn còn tình trạng một số địa phương chưa thực sự công khai, minh bạch các quyết định, chính sách liên quan đến người dân. Việc cung cấp thông tin về ngân sách, các dự án đầu tư công vẫn chưa đầy đủ, kịp thời. Nhiều địa phương vẫn áp dụng lối làm việc hành chính mệnh lệnh, thiếu tính công khai, dân chủ. 

Về quy trình ra quyết định, nhiều nơi vẫn còn tình trạng đưa ra quyết định quan trọng mà chưa lấy ý kiến đầy đủ của các tổ chức đoàn thể, chuyên gia và người dân. Việc tham vấn, lấy ý kiến các bên liên quan vẫn mang tính hình thức. Bên cạnh đó, trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương vẫn là vấn đề nhức nhối. Việc chính quyền phải báo cáo, giải trình trước cơ quan dân cử như HĐND cùng cấp vẫn chưa thực sự nghiêm túc. Nhiều nơi coi nhẹ việc trả lời kiến nghị của cử tri, chất vấn của đại biểu HĐND. Số liệu báo cáo thiếu trung thực, thiếu độ tin cậy vẫn là vấn nạn. Nguyên nhân của tình trạng thiếu minh bạch, trách nhiệm giải trình có thể kể đến, như: nhận thức chưa đầy đủ của một bộ phận cán bộ, công chức địa phương; cơ chế, chính sách chưa rõ ràng, thiếu đồng bộ; thiếu kiểm tra, giám sát có hiệu lực; công tác dân vận chưa tốt. Vì vậy, cần nâng cao nhận thức, xây dựng hệ thống quy định đồng bộ; tăng cường hoạt động giám sát, thanh tra để góp phần nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương.

4. Đề xuất cải cách nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của mô hình quản trị địa phương ở nước ta.

4.1. Hoàn thiện thể chế và tăng cường phân cấp quản lý

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Đổi mới phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Củng cố, hoàn thiện hệ thống chính quyền địa phương; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa Trung ương và địa phương”4. Vì vậy, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy quản trị địa phương, việc hoàn thiện thể chế và tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý là một trong những giải pháp trọng tâm cần được tập trung triển khai tại Việt Nam trong thời gian tới:

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản trị địa phương. Trước hết, cần tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung đồng bộ các văn bản pháp luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp để bảo đảm tính thống nhất, khắc phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, mơ hồ. Cần quy định rõ ràng, chi tiết về phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý, cung ứng dịch vụ công giữa trung ương với địa phương, giữa các cấp địa phương với nhau. Bên cạnh đó, cần ban hành các văn bản pháp lý cụ thể, toàn diện quy định về cơ chế, thẩm quyền, trình tự, thủ tục của chính quyền địa phương các cấp trong, các lĩnh vực quản lý nhà nước, như: kinh tế, đầu tư, xây dựng, tài nguyên môi trường, văn hóa xã hội,… Các quy định này sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng để đẩy mạnh phân cấp, giảm sự tập trung, giao quyền cho địa phương.

Thứ hai, đẩy mạnh phân cấp về nhiệm vụ, quyền hạn và nguồn lực. Trên cơ sở hệ thống pháp luật đồng bộ, cần tiếp tục thực hiện phân cấp mạnh mẽ nhiệm vụ, quyền hạn quản lý cho chính quyền địa phương các cấp. Chính quyền địa phương cần được giao quyền chủ động nhiều hơn trong xây dựng chính sách, chiến lược, quy hoạch phát triển, trong quản lý tài chính, tài nguyên, bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, từng bước giao quyền tự chủ cao hơn về nhân sự, tổ chức bộ máy cho địa phương căn cứ vào điều kiện thực tế. Song song với phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn, cần phân bổ nguồn lực tài chính, nguồn nhân lực phù hợp cho chính quyền địa phương. Cần điều chỉnh cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng giao nguồn lực trực tiếp cho địa phương để họ có điều kiện hoạt động hiệu quả hơn.

Thứ ba, đổi mới phương thức quản lý và kiểm tra, giám sát của Trung ương. Để bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của trung ương, cần đổi mới phương thức quản lý của các bộ, ngành, cơ quan trung ương đối với chính quyền địa phương. Thay vì can thiệp trực tiếp, điều hành thủ công từng nhiệm vụ cụ thể, trung ương cần đóng vai trò định hướng chiến lược, ban hành các quy định, chính sách khung, xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Hoạt động thanh tra, kiểm tra nên áp dụng các biện pháp bằng công nghệ hiện đại để nắm bắt kịp thời tình hình thực thi ở địa phương.

Thứ tư, phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân cử, người dân. Để tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương, cần phải phát huy tối đa vai trò giám sát của HĐND và sự tham gia của người dân. HĐND các cấp cần tăng cường hoạt động giám sát, thực hiện nghiêm túc quyền chất vấn, kiến nghị đối với chính quyền cùng cấp và cấp dưới. Các quy định về việc công khai, minh bạch thông tin hoạt động của chính quyền địa phương cũng cần được thể chế hóa rõ ràng hơn. Người dân và các tổ chức đoàn thể phải được bảo đảm quyền tiếp cận thông tin

4.2. Tăng cường năng lực và nguồn lực cho quản trị địa phương

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản trị địa phương, việc tăng cường năng lực và nguồn lực cho chính quyền các địa phương là một trong những giải pháp quan trọng cần được tập trung thực hiện trong thời gian tới. 

Một là, tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ địa phương. Để quản trị địa phương hoạt động hiệu quả, việc tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ là rất quan trọng. Cần có các chương trình đào tạo bài bản từ lý luận đến thực hành về quản lý nhà nước, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, ra quyết định… Cần chú trọng đào tạo kỹ năng mới như xây dựng chính sách dựa trên bằng chứng, quản lý công dân, xử lý dữ liệu lớn, chuyển đổi số… Đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo cần bảo đảm độ linh hoạt trong ra quyết định5

Bên cạnh đó, cần từng bước nâng cao tiêu chuẩn về trình độ, năng lực đối với đội ngũ cán bộ, công chức địa phương thông qua việc tuyển dụng và đề bạt cán bộ công khai, công bằng. 

Cơ chế đãi ngộ, khen thưởng cũng cần được hoàn thiện để tạo động lực cho đội ngũ cán bộ làm việc hiệu quả hơn. Công tác quy hoạch, đề bạt cán bộ quản lý cấp chiến lược ở địa phương cũng cần được thực hiện một cách nghiêm túc, khách quan dựa trên những tiêu chí chuẩn mực và kết quả công tác thực tế. Cơ chế luân chuyển, điều động cán bộ giữa các địa phương cần được vận hành hiệu quả để chuẩn hóa năng lực đội ngũ cán bộ địa phương. Chính sách tiền lương, thu nhập và đãi ngộ đối với cán bộ, công chức địa phương cần được đánh giá, điều chỉnh cho phù hợp với năng lực và trách nhiệm công việc. Mức lương, thu nhập cần ở mức hấp dẫn và cạnh tranh để thu hút, giữ chân được những nhân lực có năng lực cao. Từng bước thực hiện chính sách tiền lương theo vị trí việc làm và năng suất, hiệu quả làm việc của mỗi cán bộ. Ngoài tiền lương, các hình thức khen thưởng vật chất và tinh thần như nâng lương trước thời hạn, được đào tạo trong và ngoài nước,… cũng cần được thực hiện một cách công khai, công bằng để khuyến khích, động viên đội ngũ cán bộ địa phương nỗ lực phấn đấu hơn nữa.

Hai là, bố trí nguồn lực tài chính phù hợp với khả năng nguồn thu và nhu cầu chi. Nguồn lực tài chính là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương. Trước hết, cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng giao quyền tự chủ cao hơn cho các địa phương trong xây dựng dự toán và sử dụng ngân sách. Ngân sách cần được phân bổ hợp lý, công bằng dựa trên khả năng nguồn thu và nhu cầu chi thực tế tại từng địa phương. Đối với những địa phương có khả năng nguồn thu lớn, cần tăng tỷ lệ điều tiết ngân sách cho họ để có nguồn lực đầu tư phát triển. Với những địa phương khó khăn, thiếu nguồn thu thì cần tăng mức bổ sung cân đối từ ngân sách trung ương để bảo đảm các khoản chi thường xuyên. Mức hỗ trợ và tỷ lệ phân bổ cần được điều chỉnh thường xuyên phù hợp với diễn biến phát triển của từng địa phương.

Ba là, khuyến khích và tạo cơ chế sử dụng hiệu quả các nguồn lực của địa phương. Bên cạnh nguồn ngân sách nhà nước, chính quyền địa phương cũng cần được tạo điều kiện, cơ chế để huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực khác trên địa bàn, như: nguồn lực nhàn rỗi từ khu vực kinh tế tư nhân, nguồn vốn FDI, ODA và nguồn đóng góp của người dân. Các quy định thuận lợi về chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội cần được ban hành để tạo động lực cho khối tư nhân đầu tư nhiều hơn vào địa bàn. Chính quyền địa phương cần tham gia huy động vốn ODA, vốn vay ưu đãi để hỗ trợ đầu tư phát triển.

4.3. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ và đổi mới quản trị

Đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ và đổi mới phương thức quản trị là một trong những giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản trị địa phương tại Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4 và xu thế toàn cầu hóa.

Thứ nhất, triển khai mạnh mẽ chính phủ điện tử, chuyển đổi số trong hoạt động của chính quyền địa phương. Trước hết, các địa phương cần đẩy nhanh tiến trình xây dựng chính quyền điện tử phục vụ người dân và doanh nghiệp. Cần triển khai việc cung cấp các dịch vụ công trực tuyến ở mức độ cao, tích hợp trên cổng thông tin điện tử, ứng dụng trên thiết bị di động, bảo đảm phục vụ 24/7 mọi lúc, mọi nơi. Hoạt động giao dịch điện tử, thanh toán điện tử, kết nối các cơ quan, tổ chức cũng cần được ưu tiên thúc đẩy để giảm thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả phục vụ nhân dân. Hệ thống dữ liệu quản lý tích hợp dùng chung cần được xây dựng, tích hợp liên thông để chia sẻ dữ liệu giữa các ngành, các cấp chính quyền.

Thứ hai, áp dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI) vào các khâu quản lý, điều hành. Trong bối cảnh dữ liệu số ngày càng lớn, công nghệ AI có nhiều ứng dụng trong việc hỗ trợ ra quyết định, tối ưu hóa các nguồn lực và nâng cao hiệu suất làm việc cho các nhà quản lý, điều hành. Vì vậy, các địa phương cần đẩy mạnh ứng dụng AI vào các khâu quản lý và vận hành của chính quyền. Cụ thể, AI có thể được ứng dụng vào phân tích, xử lý dữ liệu lớn giúp nắm bắt, dự báo xu hướng phát triển kinh tế, dịch chuyển dân số, biến đổi khí hậu… từ đó hỗ trợ việc lập kế hoạch, quy hoạch phát triển, hoạch định chính sách hiệu quả hơn. AI cũng giúp hỗ trợ các hệ thống đô thị thông minh trong quản lý về giao thông, y tế, giáo dục, an ninh trật tự, quản lý nhà nước… nhằm tận dụng tối đa nguồn lực, nâng cao hiệu quả và chất lượng các dịch vụ công. 

Thứ ba, đổi mới phương thức quản lý theo hướng tiếp cận mới. Bên cạnh ứng dụng công nghệ, cách thức quản lý, điều hành của chính quyền địa phương cũng cần có những đổi mới, cải cách căn bản theo những phương thức và mô hình tiếp cận mới phù hợp với xu thế phát triển. Một trong những tiếp cận mới là quản trị dựa trên dữ liệu, nền tảng là hệ thống thông tin, dữ liệu số lớn và phân tích dữ liệu chính xác. Thay vì dựa trên nguồn thông tin không đầy đủ hoặc trực giác kinh nghiệm, các nhà quản lý có thể đưa ra quyết định chính sách, điều hành dựa trên các phân tích dữ liệu một cách khoa học. Tiếp cận lấy người dân làm trung tâm, phục vụ nhân dân là khách hàng cũng cần được đẩy mạnh. GS. Klaus Schawab đã cho rằng: “Trong một thế giới nơi các chức năng công quyền thiết yếu, truyền thông xã hội và thông tin cá nhân được chuyển sang nền tảng kỹ thuật số, các chính phủ – phối hợp với khu vực doanh nghiệp và tổ chức xã hội – cần tạo ra các quy tắc, cơ chế giám sát và cân bằng quyền lực để duy trì công lý, sức cạnh tranh, sự công bằng, sở hữu trí tuệ bao trùm, an toàn và độ tin cậy”6. Các quy trình, thủ tục hành chính cần được thiết kế theo hướng thân thiện, thuận tiện để tạo sự hài lòng cho người dân. Hệ thống tiếp nhận và xử lý phản hồi từ người dân cần được đổi mới để lắng nghe và phục vụ tốt hơn.

Thứ tư, ứng dụng mô hình, giải pháp đô thị thông minh và bền vững. Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh, nhiều địa phương đang đẩy mạnh xây dựng mô hình đô thị thông minh và bền vững dựa trên ứng dụng các công nghệ hiện đại. Đây cũng là xu hướng mà các chính quyền địa phương cần tích cực nghiên cứu, áp dụng để quản lý, vận hành các đô thị hiệu quả hơn. Các giải pháp như hệ thống giao thông thông minh, quản lý đô thị thông minh, năng lượng xanh, hệ thống thoát nước thông minh, công viên đô thị thông minh… cần được ưu tiên triển khai để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình đô thị hóa như kẹt xe, ô nhiễm môi trường, quản lý cấp thoát nước, xử lý rác thải, tiết kiệm năng lượng,… Bên cạnh đó, việc kết hợp phương thức quản lý và ứng dụng công nghệ mới cũng góp phần xây dựng môi trường đô thị thông minh, hiện đại và bền vững, đáp ứng xu hướng phát triển của tương lai.

Chú thích:
1. World Bank (2006). Making Poverty Reduction Strategy Paper Inclusive. http://documents.worldbank.org/curated/en/591511520425305241/Making-PRSP-inclusive.
2. Vũ Công Giao (2017) Một số vấn đề lý luận về quản trị tốt. https://tcnn.vn/news/detail/36119/Mot_so_van_de_ly_luan_ve_quan_tri_totall.html, ngày 12/3/2017.
3. UNDP (1997). Governance for sustainable human development, a UNDP policy document, https://digitallibrary.un.org/record/492551
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 225
5. Lưu Kiếm Thanh, Hà Quang Thanh. Mô hình lãnh đạo linh hoạt. https://tcnn.vn/news/detail/39066/Mo-hinh-lanh-dao-linh-hoat.html, ngày 14/01/2018
6. Klaus Schwab (2017). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 122-124.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Văn Cường (2016). “Quản trị địa phương ở Việt Nam hiện nay“. Luận án Tiến sĩ Khoa học Chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Thôi. Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực, hiệu quả quản trị địa phương ở Việt Nam hiện nay, https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 30/11/2023.
3. Vũ Công Giao, Nguyễn Hoàng Anh, Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Minh Tuấn (đồng chủ biên) (2017). Quản trị tốt: Lý luận và thực tiễn. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.
4. Trường Chính sách công Lý Quang Diệu (Singapore) và Viện Kinh tế Việt Nam (2019), Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với quản trị nhà nước (Kỷ yếu hội thảo quốc tế). H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.
5. Nguyễn Quốc Tuấn (2018). Mô hình quản trị địa phương ở Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.