PGS.TS Nguyễn Duy Thục
Trường Đại học Văn Lang
ThS. Nguyễn Phương Quỳnh
Trường Đại học Hoa Sen
(Quanlynhanuoc.vn) – Tiêu dùng xanh hiện là bài toán mà nhân loại đang phải giải quyết. Việc nâng cao hành vi tiêu dùng xanh trong sinh viên nói riêng, trong cộng đồng nói chung là yêu cầu cần thiết. Nghiên cứu đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh của sinh viên đại học qua khảo sát với 1.064 sinh viên ở các trường đại học tại TP. Hồ Chí Minh. Dựa trên kết quả nghiên cứu, bài viết đề xuất một số hàm ý nhằm tăng cường việc tiêu dùng xanh bảo vệ môi trường của sinh viên trong các trường đại học.
Từ khóa: Hành vi tiêu dùng xanh; yếu tố ảnh hưởng; sinh viên đại học; TP. Hồ Chí Minh.
1. Đặt vấn đề
Tăng trưởng kinh tế nhanh ở các nước đang phát triển đã mang lại những lợi ích to lớn cho người dân: mức sống của dân cư đã được nâng lên rõ rệt, việc làm và đời sống tinh thần được cải thiện đáng kể… Tuy nhiên, việc phát triển kinh tế nhanh cũng tạo ra một loạt các loại vấn đề cho các quốc gia. Ô nhiễm đã trở thành vấn đề phổ biến và là mối đe dọa đối với đời sống của người dân do quá trình công nghiệp hóa nhanh, đặc biệt là ở khu vực thành thị (Alina, 2018). Hầu hết các doanh nghiệp và người tiêu dùng trên toàn thế giới đều phải đối mặt với thách thức trong việc bảo tồn tài nguyên và bảo vệ môi trường, bởi vì hành vi của người tiêu dùng cũng là nguyên nhân của nhiều vấn đề môi trường (Naalchi Kashi, 2020).
Sinh viên đại học có khả năng sáng tạo, linh hoạt và thích ứng với những đổi mới, trong đó có hành vi tiêu dùng xanh. Ngoài ra, sinh viên có thể là những nhóm quan trọng để khuyến khích các thành viên trong gia đình có hành vi tiêu dùng xanh. Nghiên cứu nhằm kiểm chứng những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh của sinh viên TP. Hồ Chí Minh. Từ đó, đề xuất các hàm ý nâng cao ý thức cũng như hành vi tiêu dùng xanh trong sinh viên. Các phát hiện có thể mang lại những hiểu biết sâu sắc hơn về sự ảnh hưởng của những yếu tố đến hành vi mua của người tiêu dùng xanh, từ đó đưa ra các khuyến nghị cho các trường đại học với vai trò thúc đẩy các hành vi tiêu dùng xanh.
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
Theo Jaiswal (2012), tiêu dùng xanh là sự sẵn sàng mua những sản phẩm thân thiện với hệ sinh thái, những sản phẩm mà thành phần và cách thức sản xuất có tác động nhỏ nhất đến môi trường. Chan (2001) cho rằng, tiêu dùng xanh thể hiện trách nhiệm đối với việc bảo vệ môi trường thông qua việc lựa chọn các sản phẩm thân thiện với môi trường, cách tiêu dùng và xử lý rác thải hợp lý.
Thuật ngữ “hành vi tiêu dùng xanh” dùng để chỉ các cá nhân, tổ chức lựa chọn và sử dụng những sản phẩm ít hoặc không có tác động tiêu cực đến môi trường. Theo Y. Kim và Choi (2005), thực hành tiêu dùng thân thiện với môi trường truyền cảm hứng cho người tiêu dùng hành động theo cách có lợi cho cộng đồng địa phương của họ.
Trong nghiên cứu này, tiêu dùng xanh được hiểu là hành vi mua, sử dụng những sản phẩm thân thiện với môi trường cũng như sức khỏe con người, tối đa hóa việc sử dụng cũng như tránh sử dụng những sản phẩm dùng một lần. Sản phẩm xanh được hiểu là những sản phẩm có thể tái sử dụng và hạn chế gây ảnh hưởng đến môi trường cũng như sức khỏe cộng đồng. Các sản phẩm xanh được đề cập tới trong phạm vi nghiên cứu là các sản phẩm có thể thay thế đồ dùng một lần với chức năng bao gói, hỗ trợ cho việc mua sắm và tiêu dùng, bao gồm: túi vải, ống hút inox, ống hút tre, bình đựng nước inox, hộp nhựa dùng nhiều lần, hộp inox, hộp thủy tinh…
Zillur Rahman Siddique và cộng sự (2018) đã tiến hành để xem xét các nguồn nhận thức của người tiêu dùng về các sản phẩm xanh và tác động của nó đến quyết định mua hàng ở Bangladesh. Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, các hoạt động quảng bá về các sản phẩm thân thiện với môi trường cũng như các nhóm tham khảo là hai nhóm yếu tố có ảnh hưởng đáng kể đến nhận thức của người tiêu dùng về các sản phẩm xanh.
Trong nghiên cứu của N. Divyapriyadharshini và cộng sự (2019), nghiên cứu đề cập đến 5 yếu tố: mối quan tâm đến môi trường, kiến thức, sản phẩm thân thiện với môi trường, truyền thông xã hội, hoạt động quảng bá. Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, các hoạt động quảng bá về các sản phẩm thân thiện với môi trường ảnh hưởng đến nhận thức của người tiêu dùng về các sản phẩm xanh. Nghiên cứu cũng cho thấy, nhận thức về sản phẩm xanh là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng đến quyết định mua hàng xanh của người tiêu dùng.
Nhìn chung, các nghiên cứu trên đã chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa các yếu tố góp phần tạo nên nhận thức của người tiêu dùng về tiêu dùng xanh, bao gồm: quan tâm đến môi trường, kiến thức, sản phẩm thân thiện với môi trường, phương tiện truyền thông xã hội, các hoạt động quảng cáo, thông tin từ các nhóm tham khảo… có thể ảnh hưởng đến các sản phẩm thân thiện với môi trường và việc tiêu thụ các sản phẩm này.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, có một số nghiên cứu về tiêu dùng xanh. Đỗ Thị Đông (2020), trên cơ sở khảo sát đối với 367 sinh viên trên địa bàn Hà Nội và sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính đa biến, kết quả cho thấy, nhận thức về những vấn đề môi trường, sự quan tâm đến môi trường và hành vi bảo vệ môi trường có mối quan hệ thuận chiều với hành vi tiêu dùng xanh của sinh viên. Nghiên cứu của Nguyễn Trọng Luận và cộng sự (2023) đã khảo sát mẫu ngẫu nhiên gồm 250 người tiêu dùng cùng với việc sử dụng phương trình cấu trúc (SEM) và phần mềm AMOS, kết quả của nghiên cứu đã khẳng định các nhân tố: thái độ, chuẩn mực xã hội và mối quan tâm về môi trường ảnh hưởng đến việc mua sản phẩm xanh.
Với mục tiêu của nghiên cứu là xác định và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh của sinh viên ở TP. Hồ Chí Minh. Nhóm tác giả đã khảo sát 1.064 sinh viên bằng câu hỏi để tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh của sinh viên. Từ kết quả nghiên cứu, đưa ra một số hàm ý đối với các trườngđại học nhằm tăng cường tiêu dung xanh trong sinh viên và ý thức lan tỏa tiêu dùng xanh trong cộng đồng.
2.2. Giả thuyết nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu được đề xuất dựa trên cơ sở các nghiên cứu trên. Bên cạnh đó, nhận thức về tiêu dùng xanh của sinh viên đại học chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố, như: học hỏi từ nhà trường; học hỏi từ truyền thông; học hỏi từ nhóm tham khảo. Vì thế, đề xuất mô hình nghiên cứu như sau:

Sự quan tâm đến môi trường là những cá nhân luôn quan tâm đến các vấn đề môi trường, tự chịu trách nhiệm về bản thân, xã hội và các thế hệ tương lai về hành động của mình trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Mối quan tâm về môi trường là yếu tố quan trọng và trực tiếp trong việc thúc đẩy hành vi tiêu dùng xanh (Felix và cộng sự, 2018; Hao và cộng sự, 2019; Wei và cộng sự, 2018). Từ kết quả nghiên cứu này, người tiêu dùng có cái nhìn mới tác động tích cực đến ý định mua sản phẩm, dịch vụ xanh của họ, đây cũng là tiền đề để hành vi tiêu dùng xanh phát triển. Vì vậy, giả thuyết nghiên cứu đưa ra như sau:
H1: Mối quan tâm về môi trường có tác động tích cực đến hành vi tiêu dùng xanh của sinh viên đại học.
Chuẩn mực xã hội là cách đánh giá và xác định hành vi của người tiêu dùng, những hành vi này có những chuẩn mực, quy tắc được cộng đồng, xã hội thừa nhận và phù hợp với pháp luật (Cialdini & Trost, 1998). Tiêu dùng xanh của người dân ngày càng bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các chuẩn mực xã hội, điển hình như lựa chọn thực phẩm xanh, sạch và sản phẩm hữu cơ (Pliner & Mann, 2004), việc lựa chọn và đánh giá sản phẩm mới (R. Lee và cộng sự, 2009). Đối với người tiêu dùng, các chuẩn mực xã hội được cho là có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc xác định hành vi của người tiêu dùng và là một trong những khái niệm quan trọng liên quan đến hành vi của người tiêu dùng (Jin & Kang, 2010). Hiện nay, các chuẩn mực xã hội về năng lượng sạch đang được các nhà tiếp thị ngày càng mở rộng, tuyên truyền trong cộng đồng và được xã hội hưởng ứng nhiệt tình (Schultz et al., 2018), đồng thời, các chuẩn mực xã hội cũng là một biện pháp hiệu quả để lên án những hành vi gây hại cho môi trường (White và cộng sự, 2019).
H2: Chuẩn mực xã hội ảnh hưởng tích cực đến hành vi tiêu dùng xanh.
Nhận thức về giá cả. Người tiêu dùng luôn thích mua hoặc mua những sản phẩm có giá thành thấp so với các sản phẩm khác. Theo như Kavilanz (2008), sản phẩm xanh thường được cho là có giá thành cao hơn so với các sản phẩm hàng hóa truyền thống, do vậy, giá cả là một trong những yếu tố làm giảm đi số lượng người tiêu dùng xanh. Ling (2013) cho rằng, sản phẩm xanh thân thiện với môi trường thường có giá cao hơn do chi phí phát sinh trong quá trình từ sản phẩm đến chứng nhận. Giá sản phẩm xanh cao là một trong những rào cản chính khiến người tiêu dùng mua các sản phẩm thông thường nhiều hơn các sản phẩm xanh. Do đó, giá cả là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hành vi tiêu dùng xanh sẽ được đưa vào mô hình để hình thành giả thuyết nghiên cứu.
H3: Nhận thức về giá thành của sản phẩm xanh ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng xanh của sinh viên.
Nhận thức về tiêu dùng xanh đã thay đổi vai trò của người tiêu dùng trong việc thể hiện trách nhiệm của mình với cộng đồng trước các hoạt động mua hàng (Cherian và Jacob, 2012). Nhiều nghiên cứu cho rằng, cá nhân có trình độ học vấn cao, có kiến thức về môi trường sẽ tham gia nhiều hơn vào các hành vi vì môi trường. Nghiên cứu của Kaman (2008) cũng chỉ ra rằng, các nhận thức về tinh thần trách nhiệm đối với môi trường và cung cấp các thông tin của các vấn đề về môi trường hiện nay cũng là yếu tố kích thích mạnh hành vi tiêu dùng xanh.
H4: Nhận thức về tiêu dùng xanh ảnh hưởng tích cực đến hành vi tiêu dùng xanh của sinh viên.
Học hỏi từ nhà trường về tiêu dùng xanh. Đối với người tiêu dùng, một phần kiến thức quan trọng liên quan đến môi trường mà họ nhận được là từ hoạt động giáo dục tại các nhà trường, ở các cấp học khác nhau. Nhận thức và kiến thức đóng vai trò hiệu quả ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng (McEachern và Warnaby, 2008). Kiến thức có thể liên quan đến nhận thức và tác động đến các lựa chọn hoặc phong trào mua hàng của người tiêu dùng.
H5: Hoạt động giáo dục ảnh hưởng tích cực đến nhận thức về tiêu dùng xanh của sinh viên.
Học hỏi từ truyền thông về tiêu dùng xanh. Nhiều nghiên cứu cho rằng, hoạt động truyền thông về các sản phẩm xanh tác động tới hành vi mua sắm các sản phẩm thân thiện. Một chiến lược tiếp thị xanh tốt không chỉ khuyến khích người tiêu dùng hỗ trợ các sản phẩm xanh mà còn giúp nâng cao hình ảnh của doanh nghiệp, giúp người tiêu dùng nhận ra các đóng góp của doanh nghiệp trong chỉ ra việc bảo vệ môi trường. Các quảng cáo về sản phẩm xanh trên các phương tiện truyền thông khác nhau cũng giúp cung cấp thông tin cho khách hàng về những lợi ích của việc sử dụng các sản phẩm xanh như: việc tiêu tốn tài nguyên và năng lượng hơn để sản xuất sản phẩm, hay hoạt động sản xuất dựa trên các nguồn bền vững, không gây hại cho môi trường và xã hội… (Chang, 2011). Hoạt động truyền thông sẽ có tác động đến nhận thức của người tiêu dùng và thúc đẩy họ mua các sản phẩm xanh.
H6: Thông tin truyền thông có ảnh hưởng tích cực đến nhận thức về tiêu dùng xanh của sinh viên.
Học hỏi từ nhóm tham khảo. Theo Solomon và cộng sự (2006), nhóm tham khảo được định nghĩa là những người mà thái độ hoặc nguyên tắc của họ được người khác tuân theo và đôi khi nó ảnh hưởng đến hành vi mua của người khác. Mọi người thường thích tuân theo các giá trị, chuẩn mực, thái độ hoặc niềm tin của các nhóm tham khảo mà ảnh hưởng tới họ và cố gắng tự mình áp dụng những giá trị đó như một hướng dẫn cho nhận thức và hành vi. Ảnh hưởng của nhóm tham khảo cũng được xác định để thảo luận về thái độ và hành vi trong chủ nghĩa tiêu dùng sinh thái (Gupta và Ogden, 2009). Các nghiên cứu của R. Maheswari và cộng sự (2015) đã chỉ ra một số nhóm tham khảo có ảnh hưởng tích cực đến thái độ và nhận thức của người tiêu dùng về sản phẩm xanh như: bạn bè, các mối quan hệ gia đình và người thân, hàng xóm, đồng nghiệp, cộng đồng dân cư và văn hóa địa phương.
H7: Nhóm tham khảo có ảnh hưởng tích cực đến nhận thức về tiêu dùng xanh của sinh viên.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thu thập dữ liệu nghiên cứu, đã tiến hành khảo sát 1.064 sinh viên đang học tại các trường đại học tại TP. Hồ Chí Minh. Bảng khảo sát bao gồm hai phần. Phần đầu đại diện cho các câu hỏi nhân khẩu học: giới tính, nhóm ngành học, năm học và mức độ hiểu biết về tiêu dùng xanh. Phần thứ hai chứa các mục đại diện cho các biến; quan tâm đến môi trường – QTMT (4 biến quan sát); chuẩn mực xã hội – CXH (5 biến quan sát); nhận thức về giá cả – NTGC (4 biến quan sát); nhận thức về tiêu dùng xanh – NTTDX (5 biến quan sát); học hỏi từ nhà trường – HHNT (5 biến quan sát); học hỏi từ truyền thông – HHTT (3 biến quan sát); học hỏi từ nhóm tham khảo – HHNTK (4 biến quan sát); hành vi tiêu dùng xanh – HVTDX (4 biến quan sát). Bảng câu hỏi sử dụng thang đo Likert 5 mức độ từ 1- Rất không đồng ý đến 5 – Rất đồng ý.
Nghiên cứu sử dụng phần mềm Smart PLS 3.3 để đánh giá mô hình. Phần phân tích định lượng được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm hai phần, gồm kiểm tra tính hợp lệ và độ tin cậy của các thang đo trong mô hình đo lường; kiểm tra hệ số đường dẫn của mô hình cấu trúc, đánh giá mô hình cấu trúc và kiểm tra các giả thuyết.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Thống kê mô tả mẫu

Kết quả khảo sát về hiểu biết về tiêu dùng xanh cho thấy, đa số sinh viên đại học còn thờ ơ với tiêu dùng xanh. Chỉ có 26,4% là đã tìm hiểu, 18,7% ít nghe nói đến tiêu dùng xanh.
4.2. Kết quả đánh giá mô hình đo lường
Việc đánh giá mô hình đo lường nhằm mục đích xác nhận độ tin cậy và hiệu lực của các cấu trúc và kích thước của chúng. Theo Hair và cộng sự (2017), các giá trị hệ số Cronbach’salpha trên 0,60 và tốt hơn là trên 0,70 được coi là phù hợp trong nghiên cứu khám phá và các giá trị từ 0,70 đối với độ tin cậy tổng hợp (CR) được coi là thỏa đáng. Các chỉ số có hệ số tải trên 0,60 được coi là phù hợp. Phương sai trung bình được trích xuất (AVE) cho các cấu trúc lớn hơn 0,5, cho thấy giá trị hội tụ tốt.
Công cụ được đánh giá về tính hợp lệ của cấu trúc và tính nhất quán bên trong: Tính nhất quán bên trong mô tả mức độ chặt chẽ của các biến quan sát trong đo lường cùng một cấu trúc. Sau khi bỏ bớt các biến quan sát không phù hợp, có các kết quả về thang đó như sau: thang đo yếu tố quan tâm đến môi trường gồm 3 biến quan sát (Cronbach’salpha – CA = 0,799); chuẩn mực xã hội gồm 3 biến quan sát (CA = 0,721); nhận thức về giá cả gồm 3 biến quan sát (CA = 0,735); nhận thức về tiêu dùng xanh gồm 5 biến quan sát (CA = 0,843); học hỏi từ nhà trường gồm 5 biến quan sát (CA = 0,848); học hỏi từ truyền thông gồm 3 biến quan sát (CA = 0,824); học hỏi từ nhóm tham khảo gồm 4 biến quan sát (CA = 0,837) và hành vi tiêu dùng xanh gồm 3 biến quan sát (CA = 0,780). Từ kết quả trên thể hiện tính nhất quán bên trong được bảo đảm. Bảng 2 cho thấy, hệ số tải, hệ số Cronbach’salpha, độ tin cậy tổng hợp (CR) và phương sai trung bình được trích xuất (AVE).

Phương sai trung bình được trích xuất (AVE) và độ tin cậy tổng hợp (CR) của tất cả các cấu trúc đều cao hơn các giá trị được đề xuất lần lượt là lớn hơn 0,50 và lớn hơn 0,70. Do đó, giá trị hội tụ và độ tin cậy được khẳng định.
Tương tự, giá trị phân biệt cũng được tính toán (bảng 3) theo tiêu chí của Fornell và Larcker (1981). Nếu căn bậc hai AVE của các biến tiềm ẩn lớn hơn trị tuyệt đối hệ số tương quan của biến đó với các biến khác, thì tính phân biệt thang đo được bảo đảm.
Dữ liệu trên đường chéo (in đậm) là căn bậc hai của AVE, các giá trị khác là tương quan với các cấu trúc khác. Từ bảng 3, tất cả các biến: chuẩn mực xã hội; học hỏi nhóm tham khảo; học hỏi truyền thông; học hỏi nhà trường; hành vi tiêu dùng xanh; nhận thức giá cả; nhận thức tiêu dùng xanh và quan tâm môi trường đều bảo đảm tính phân biệt.

Một tiêu chuẩn đánh giá tính phân biệt khác là chỉ số giá trị phân biệt , để đánh giá tính phân biệt của các nhân tố (Hair et al., 2019). Từ bảng 4 cho thấy, tất cả các giá trị phân biệt bằng chỉ số giá trị phân biệt theo từng cặp thang đo, đều nhỏ hơn 0,90. Nên mô hình đo lường đáp ứng yêu cầu về tính phân biệt.

Với các số liệu được đánh giá ở trên, mô hình đề xuất bảo đảm tất cả các yêu cầu của một mô hình đo lường trong nghiên cứu này.
4.3. Kết quả mô hình ước lượng
Đầu tiên, chúng tôi đánh giá đa cộng tuyến sử dụng hệ số (VIF). Các giá trị của các cấu trúc yếu tố dự báo phù hợp với tiêu chí VIF dưới 5 (Hair et al. 2019), có thể được quan sát trong bảng 5. Kết luận mô hình không có đa cộng tuyến.

Nghiên cứu đã kiểm tra quy mô và tầm quan trọng của các hệ số đường dẫn đại diện cho các giả thuyết nghiên cứu. Theo Hair và cộng sự (2019), mức ý nghĩa của các hệ số đường dẫn thu được bằng cách sử dụng quy trình bootstrap (với 1000 mẫu bootstrap).
Kết quả ở bảng 4 cho thấy, với mức ý nghĩa 5%, các hệ số hồi quy ước lượng đều dương và Pvalue đều nhỏ hơn 0,05 cho thấy, các yếu tố tiềm ẩn đều có ảnh hưởng tích cực và đáng kể đến hành vi tiêu dùng xanh (Hi, i = 1,2,3,4) và nhận thức tiêu dùng xanh (H5, H6, H7) đều được chấp nhận.
Khi xem xét các giá trị của hệ số tác động chuẩn hóa của dữ liệu gốc (Original Sample) cho thấy, mức độ tác động trực tiếp và gián tiếp của các yếu tố đến hành vi tiêu dùng xanh của sinh viên các trường tại TP. Hồ Chí Minh được xếp theo thứ tự: nhận thức về tiêu dùng xanh (0,264) tác động mạnh nhất, tiếp sau là nhận thức về giá cả (0,219); chuẩn mực xã hội (0,213); quan tâm đến môi trường (0,124). Trong các nhân tố đến nhận thức về tiêu dùng xanh của sinh viên thì học hỏi từ nhà trường tác động mạnh nhất (0,365), tiếp theo là học hỏi nhóm tham khảo (0,316), học hỏi truyền thông (0,209).
R² đánh giá phần phương sai của các biến nội sinh mà cấu trúc giải thích được. Kết quả thể hiện trong Hình 2 các nhân tố ảnh hưởng đã giải thích được 47,8% hành vi tiêu dùng xanh của sinh viên tại TP. Hồ Chí Minh.Tương tự, ba nhân tố: học hỏi từ nhà trường, học hỏi nhóm tham khảo và học hỏi từ truyền thông đã giải thích được 60,6% nhận thức về tiêu dùng xanh của sinh viên.

Kết quả các kiểm định về sự khác biệt:
– Kết quả kiểm định (Independent Samples Test), có sự khác biệt giữa nam và nữ về hành vi tiêu dùng xanh với mức ý nghĩa 5%. Cụ thể sinh viên nữ đánh giá về hành vi tiêu dùng xanh tốt hơn (điểm trung bình là 3,73) so với các sinh viên nam (điểm trung bình là 3,59).
– Kiểm định sự khác biệt (One-Way ANOVA) không cho thấy sự khác biệt về tiêu dùng xanh đối với ngành học và năm học.
5. Kết luận và một số hàm ý
Hành vi tiêu dùng xanh bị ảnh hưởng mạnh nhất từ nhận thức về tiêu dùng xanh, trong khi đó, học hỏi từ nhà trường lại là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến nhận thức tiêu dùng xanh của sinh viên. Vì vậy, để tăng cường hoạt động tiêu dùng xanh, các trường đại học cần làm tốt các vấn đề sau:
Một là, nên đưa thêm các môn học có nội dung giáo dục ý thức tiêu dùng xanh trong sinh viên (có 26,4% là đã tìm hiểu tiêu dùng xanh). Thực ra một phần của các kiến thức này đã được lồng ghép trong các học phần về phát triển bền vững trong các trường đại học, tuy nhiên, các lý thuyết này, chưa gắn với thực tiễn luôn biến động hằng ngày. Vì vậy, phải có môn học giáo dục nhận thức về tiêu dùng xanh với các nội dung thực tiễn và sâu sắc hơn cho tất cả các ngành trong hệ thống giáo dục đại học.
Hai là, tăng cường các hoạt động truyền thông trong nhà trường về tiêu dùng xanh. Nhà trường nên đi đầu trong việc xây dựng một môi trường xanh. Cụ thể, nên khuyến khích tiêu thụ các sản phẩm xanh trong trường, hạn chế tối đa sử dụng các sản phẩm ảnh hưởng đến môi trường xanh trong các phòng ban, nơi sinh hoạt và học tập, căn tin, ký túc xá sinh viên.
Ba là, nâng cao hành động tiêu dùng xanh trong sinh viên bằng cách tổ chức các hoạt đồng vì môi trường một cách thường xuyên, hiệu quả và thiết thực. Thường xuyên gắn các hoạt động vì môi trường với hoạt động của đoàn thanh niên, các câu lạc bộ và các tổ chức khác trong nhà trường. Thông qua các hoạt động này, gắn các hoạt động của sinh viên với các hoạt động vì môi trường và từ đó giáo dục ý thức và hành vi tiêu dùng xanh của sinh viên.
Tài liệu tham khảo:
1. Agyemang, F. G., Dzandu, M. D., & Boateng, H. (2016). Knowledge sharing among teachers: the role of the Big Five Personality traits. VINE Journal of Information and Knowledge Management Systems, 46(1), 64-84. DOI:10.1108/VJIKMS-12-2014-0066.
2. Al-Alawi, A. I., Al-Marzooqi, N. Y., & Mohammed, Y.F. (2007). Organizational culture and knowledge sharing: critical success factors. Journal of knowledge management, 11(2), 22-42.
3. Barrick, M. R., & Mount, M. K. (1991). The big five personality dimensions and job performance: a meta-analysis. Personnel psychology, 44 (1), 1-26
4. Bock, G.-W., Zmud, R. W., Kim, Y.-G., & Lee, J.-N. (2005). Behavioral intention formation in knowledge sharing: Examining the roles of extrinsic motivators, social-psychological forces, and organizational climate. MIS quarterly, 87-111.
5. Bulan, S. J., & Sensuse, D. I. (2012). Knowledge sharing model among academic staffs in universities. Journal of Information Systems, 8(2), 133-139.
6. Chakraborty, D., Dhara, S. K., & Santra, A. (2018). Effectiveness of ICT in Strengthening the Process of Higher Education System in India.
7. Chen, C. W., Chang, M. L., Tseng, C. P., & Chen, B. C. (2007). Critical human factor evaluation of knowledge sharing intention in taiwanese enterprises. Human Factors and Ergonomics in Manufacturing, 17(5), 435-443.
8. Chong, C. W., Teh, P. L., & Tan, B. C. (2014). Knowledge sharing among Malaysian universities’ students: do personality traits, class room and technological factors matter?. Educational Studies, 40(1), 1-25.
9. Fornell, Claes, and David F. Larcker. 1981. Evaluating Structural Equation Models with Unobservable Variables and Measurement Error. Journal of Marketing Research This 18: 39-50. [CrossRef]
10. Hair, Jeffrey Risher, Marko Sarstedt, and Christian M. Ringle. 2019. When to Use and How to Report the Results of PLS-SEM Abstract. European Business Review 31: 2–24. [CrossRef]
11. Hooff, B. V. D., & Ridder, J. A. D. (2004). Knowledge sharing in context: The influence of organizational commitment, communication climate and CMC usage on knowledge sharing. Journal of Knowledge Management, 8(6), 117-30.
12. Ke Nghia NGUYEN, Thi Dong DO, (2021). Factors influencing knowledge shering in higher education: An Empirical study of students in VietNam. Journal Of Organizational Behavior Research, Cilt / Vol.: 6, Sayı / Is.: 2, Yıl/Year: 2021, Sayfa/Pages: 134-151. https://doi.org/10.51847/LJZB9XoP0F.
13. Jahani, S., Ramayah, T., & Effendi, A. A. (2011). Is reward system and leadership important in knowledge sharing among academics. American Journal of Economics and Business Administration, 3(1), 87-94.
14. Liao, C., To, P. -L., & Hsu, F. -C. (2013). Exploring knowledge sharing in virtual communities. Online Information Review, 37 (6), 891-909.
15. Moghavvemi, S., Sharabati, M., Paramanathan, T., & Rahin, N. M. (2017). The impact of perceived enjoyment, perceived reciprocal benefits and knowledge power on students’ knowledge sharing through Facebook. International Journal of Management Education, 15(1), 1–12. https://doi.org/10.1016/j.ijme.2016.11.002
16. Nassuora, A. (2011). Knowledge sharing in institutions of higher learning. International Journal of Economics & Management Sciences, 1(1), 29-36.
17. Nguyen, T., Nguyen, K., & Do, T. (2019). Knowledge sharing and innovative work behavior: The case of Vietnam. Uncertain Supply Chain Management, 7(4), 619-634.
18. Ong, H.-B., Yeap, P.-F., Tan, S.-H., & Chong, L.-L. (2011). Factors influencing knowledge sharing among undergraduate students: A Malaysian perspective. Industry and Higher Education, 25(2), 133-140.
19. Zaqout, F., & Abbas, M. (2012). Towards a model for understanding the influence of the factors that stimulate university students’ engagement and performance in knowledge sharing. Library Review, 61(5), 345-361.
20. Quan Hán Xương, Trần Trung Kiên (2020). Giải pháp thúc đẩy hoạt động chia sẻ tri thức của sinh viên Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. https://tapchicongthuong.vn/giai-phap-thuc-day-hoat-dong-chia-se-tri-thuc-cua-sinh-vien-truong-dai-hoc-kinh-te-thanh-pho-ho-chi-minh-67883.htm.