NCS. Hồ Minh Khánh
Công ty cổ phần Đầu tư Ngọc Thắng Quảng Ngãi
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, nghiên cứu pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ là rất cần thiết, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động chuyển giao công nghệ, góp phần chuyển dịch cơ cấu các ngành công nghiệp quốc gia và nền kinh tế nói chung của đất nước. Bài viết vận dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm: phân tích, tổng hợp, hệ thống, so sánh để tìm ra những hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam về định nghĩa pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng chuyển giao công nghệ, đặc biệt là hoạt động quản lý nhà nước về hợp đồng chuyển giao công nghệ. Từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về những vấn đề này.
Từ khóa: Thực trạng pháp luật; pháp luật hợp đồng; chuyển giao công nghệ; hợp đồng chuyển giao.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, với nền kinh tế hội nhập toàn cầu, tại các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, nhập khẩu công nghệ là nguồn tăng trưởng vật chất của nguồn lực sản xuất trong nước thông qua việc cung cấp thiết bị, nguyên vật liệu…, góp phần tạo ra nhiều việc làm mới, dẫn đến, tăng năng suất và hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực sẵn có, nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến thỏa thuận để nhập khẩu công nghệ, rộng hơn là hợp đồng chuyển giao công nghệ là vô cùng cần thiết. Việc đẩy mạnh nghiên cứu để hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng chuyển giao công nghệ là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với đường lối của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó, nghiên cứu pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ là vô cùng cần thiết để khắc phục những hạn chế tồn tại trong hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam, phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả của hoạt động này ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở tìm hiểu và phân tích tình hình nghiên cứu có liên quan đến chuyển giao công nghệ và hợp đồng chuyển giao công nghệ ở trong nước và ngoài nước, như: (1) Vấn đề lý luận về chuyển giao công nghệ và hợp đồng chuyển giao công nghệ; (2) Bình luận về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ; (3) Đề xuất hoàn thiện pháp luật và kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ.
2. Cơ sở lý thuyết trong nghiên cứu
Thứ nhất, học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, về Nhà nước và pháp luật, về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, về mối quan hệ qua lại giữa phát triển kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật; cùng với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, về áp dụng công nghệ mới thúc đẩy phát triển kinh tế. Bài viết sử dụng những lý thuyết nghiên cứu pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ, việc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia, bao gồm cả quyền sở hữu trí tuệ và quyền lợi về kinh tế là rất quan trọng. Bên cạnh đó, việc hiểu rõ về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, về mối quan hệ qua lại giữa phát triển kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật có thể giúp định hình được cách mà các quy định pháp luật được hình thành và thực thi, dựa trên nền kinh tế và văn hóa xã hội cụ thể của Việt Nam; cũng như cách thức và tác động của chuyển giao công nghệ trong việc nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Hơn nữa, pháp luật là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của Nhân dân, phải được thực hiện thống nhất trong cả nước1; đồng thời, chính sách bao giờ cũng đi trước pháp luật, mang tính định hướng và là nền tảng để xây dựng pháp luật2; vì vậy, việc vận dụng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, về áp dụng công nghệ mới thúc đẩy phát triển kinh tế trong quá trình nghiên cứu pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ là hoàn toàn phù hợp và đúng đắn.
Thứ hai, các học thuyết, tư tưởng về quan hệ quốc tế, về sự ràng buộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Các nước đang phát triển cần có công nghệ một cách nhanh chóng, trong khi các nước khác có công nghệ cần bán thu lợi nhuận. Trong nhiều lĩnh vực, các nước có điều kiện phát triển xã hội khác nhau nhưng đều có mục tiêu lợi nhuận nên cần có phân công lao động quốc tế tạo điều kiện chuyển giao công nghệ3. Các lý thuyết này giúp nghiên cứu sinh có cái nhìn tổng quan và sâu sắc hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển giao công nghệ.
Thứ ba, học thuyết về tự do ý chí trong giao kết hợp đồng. Ý chí có vai trò cực kỳ quan trọng đối với hợp đồng, được xem là yếu tố cơ bản tồn tại trong toàn bộ vòng đời của hợp đồng từ giao kết, thực hiện, chấm dứt và giải quyết tranh chấp. Tự do hợp đồng là một nguyên tắc xuất phát từ học thuyết tự do ý chí, có ý nghĩa hết sức quan trọng của luật hợp đồng4. Vì vậy, việc nghiên cứu và vận dụng học thuyết về tự do ý chí trong giao kết hợp đồng trong bài viết sẽ là cơ sở để tìm ra khái niệm, đặc điểm của hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Thứ tư, một số lý thuyết về sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Trong quá trình thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ cần dựa trên một số lý thuyết, bao gồm: lý thuyết về bình đẳng và lý thuyết về tôn trọng, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, coi sở hữu trí tuệ là đối tượng được pháp luật bảo vệ. Việc vận dụng lý thuyết về sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường trong bài viết là cần thiết vì lý thuyết này không chỉ là cơ sở lý luận mà còn cung cấp các nguyên tắc và hướng đi phù hợp, khả thi, giúp xây dựng các quy định và biện pháp bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia trong hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Thứ năm, nguồn gốc của hợp đồng chuyển giao công nghệ xuất phát từ nhiều học thuyết khác nhau, bao gồm: các học thuyết về thương mại quốc tế và các học thuyết về đầu tư trực tiếp nước. Việc vận dụng các học thuyết về thương mại quốc tế nhằm đưa ra lời giải thích về việc thương mại giữa các quốc gia đã góp phần như thế nào vào dòng sản xuất hàng hóa và dịch vụ; đã mang theo công nghệ được tích hợp trong chúng. Bên cạnh đó, vận dụng các học thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài có liên quan đến chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong việc giải thích tại sao FDI của các công ty đa quốc gia trở thành kênh chính để chuyển giao công nghệ giữa các công ty tới các nước đang phát triển hoặc các công ty địa phương khi công nghệ được chuyển giao cho công ty con hoặc chi nhánh của công ty đa quốc gia ở nước sở tại. Từ đó, bài viết có thể xác định phương hướng cũng như đưa ra các đề xuất cụ thể hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ phù hợp.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích bao gồm: phương pháp phân tích định tính và phương pháp phân tích định lượng thứ cấp. Cụ thể, phương pháp phân tích định tính được sử dụng để luận giải, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận; bình luận thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ, lập luận về các đề xuất nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và kiến nghị giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng chuyển giao công nghệ. Phương pháp phân tích định lượng thứ cấp được sử dụng để tổng hợp và đưa ra các số liệu thống kê cụ thể làm dẫn chứng cho những bình luận quy định pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Phương pháp tổng hợp: được sử dụng để tập hợp hóa các quan điểm khác nhau về hợp đồng chuyển giao công nghệ, làm cơ sở cho việc đánh giá và đưa ra kết luận về vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp hệ thống: được sử dụng để xâu chuỗi các thông tin liên quan đến từng nội dung thuộc phạm vi nghiên cứu của bài viết trong một chỉnh thể thống nhất. Từ đó, bài viết bảo đảm sự thống nhất giữa các vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật, giữa những hạn chế và những đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật và kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Phương pháp so sánh: được sử dụng để nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia về việc áp dụng pháp luật như công cụ quan trọng để điều chỉnh các quan hệ về chuyển giao công nghệ, từ đó đối chiếu với Việt Nam nhằm tiếp thu và tìm ra phương hướng cũng như giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ tại Việt Nam.
4. Kết quả nghiên cứu
Chuyển giao công nghệ hiểu một cách đơn giản là hoạt động nhằm đưa ra những công nghệ từ nơi có nhu cầu giao công nghệ đến nơi có nhu cầu nhận công nghệ. Mặc dù chuyển giao công nghệ là một hiện tượng xuất hiện trong nhiều thế kỷ qua bởi sự mua bán thương mại, chiến tranh, chinh phục và di cư5 và ngày càng trở nên quan trọng trong các thập kỷ gần đây6. Chuyển giao công nghệ không chỉ giới hạn ở việc tiếp thu công nghệ mới.
Để tạo cơ sở cho sự nhận thức đúng đắn và thống nhất về hợp đồng chuyển giao công nghệ, bên cạnh khái niệm chuyển giao công nghệ, cần xác định rõ từ khái niệm hợp đồng, là khái niệm “gốc” và là một trong các khái niệm cơ bản của khoa học luật kinh tế. Hợp đồng và hợp đồng chuyển giao công nghệ, nhìn dưới góc độ triết học có mối quan hệ nội tại, tương tác với nhau. Đây là mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung, trong đó hợp đồng chuyển giao công nghệ là cái riêng, còn hợp đồng là cái chung. Chính vì lý do đó, cần hiểu rõ hơn khái niệm hợp đồng chuyển giao công nghệ thì nhất thiết phải nhận thức được khái niệm chung về hợp đồng.
Từ điển Luật học của Collin định nghĩa hợp đồng là “sự thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều bên nhằm tạo ra nghĩa vụ pháp lý giữa họ”7. Bên cạnh đó, theo Từ điển Bách khoa toàn thư Britannica, hợp đồng được hiểu là một cam kết có hiệu lực pháp luật. Tại Việt Nam, Từ điển tiếng Việt đưa ra định nghĩa về hợp đồng như sau: hợp đồng là sự thỏa thuận, giao ước giữa hai hay nhiều bên quy định các quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia, thường được viết thành văn bản8.
Bản chất pháp lý của hoạt động chuyển giao công nghệ là giao dịch giữa bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao; do đó, bản chất của hợp đồng chuyển giao công nghệ là một quan hệ trong đó các bên thỏa thuận và thống nhất ý chí về việc chuyển giao công nghệ. Với bản chất đó, khái niệm hợp đồng chuyển giao công nghệ có thể được hiểu thông qua hai góc độ:
(1) Ở góc độ khách quan, hợp đồng chuyển giao công nghệ được xác định như là một phần của hệ thống quy định pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình chuyển giao và tiếp nhận công nghệ.
(2) Ở góc độ chủ quan, hợp đồng chuyển giao công nghệ được coi là một sự thỏa thuận giữa các bên tham gia, trong đó bên sở hữu công nghệ (bên giao công nghệ) cam kết chuyển giao công nghệ cho bên nhận (bên nhận công nghệ) và bên nhận cam kết trả cho bên giao một khoản tiền hoặc thanh toán một khoản lợi ích vật chất khác, tương ứng với công nghệ được chuyển giao9.
Từ các phân tích trên, có thể rút ra định nghĩa khoa học về hợp đồng chuyển giao công nghệ như sau: “Hợp đồng chuyển giao công nghệ là sự thỏa thuận giữa bên có quyền chuyển giao công nghệ và bên tiếp nhận công nghệ, theo đó, bên chuyển giao có nghĩa vụ chuyển giao một phần hoặc toàn bộ công nghệ, gắn hoặc không gắn với đối tượng sở hữu công nghiệp cho bên tiếp nhận, bên tiếp nhận phải thực hiện các cam kết tương ứng với quyền nhận công nghệ”.
5. Các đánh giá thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về thỏa thuận hợp đồng chuyển giao công nghệ
5.1. Đánh giá thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về định nghĩa pháp lý hợp đồng chuyển giao công nghệ
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có khái niệm chính thức về hợp đồng chuyển giao công nghệ, điều này đã phần nào cho thấy tính phức tạp của hợp đồng chuyển giao công nghệ dẫn đến việc nhà làm luật lựa chọn một “giải pháp an toàn” là không đưa ra định nghĩa mà chỉ quy định những yêu cầu cụ thể đối với hợp đồng chuyển giao công nghệ như đối tượng, nội dung, phương thức thực hiện… Ngoài ra, hợp đồng chuyển giao công nghệ phải phù hợp với các quy định tại Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh, Luật Sở hữu trí tuệ… Quy định như vậy sẽ dễ thực hiện nhưng có thể không khái quát được bản chất của hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Liên quan đến định nghĩa pháp lý về hợp đồng chuyển giao công nghệ, khi bàn về định nghĩa công nghệ, cần đề cập đến giải pháp, tức là cách thức hay phương tiện giải quyết một vấn đề. Giải pháp giải quyết có thể bằng “sản phẩm” (tức là bằng công cụ hay phương tiện vật chất cụ thể) hoặc có thể bằng “quy trình” (trình tự sắp xếp, tổ chức công việc). Dưới góc độ về mặt toán học, xét ở khía cạnh tập hợp, thì “sản phẩm”, “quy trình” là hai tập hợp con của tập hợp “giải pháp”. Có nghĩa là “giải pháp” bao hàm cả “sản phẩm” và “quy trình”. Cách thức diễn giải của Nghị định số 13/2012/NĐ-CP ngày 02/3/2012 (Nghị định 13) và Thông tư số 18/2013/TT-BKHCN ngày 01/8/2013 (Thông tư 18), khi đề cập đến sáng kiến, một loại hình công nghệ cũng đã tiếp cận theo hướng đề cập trên. Theo Nghị định 13 và Thông tư 18, giải pháp sáng kiến bao gồm: giải pháp kỹ thuật, giải pháp quản lý, giải pháp tác nghiệp, giải pháp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật (Điều 3.1, Nghị định 13). Trong đó, giải pháp kỹ thuật là: “cách thức kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nhằm giải quyết một nhiệm vụ (một vấn đề) xác định” hoặc giống cây trồng, giống vật nuôi (Điều 3.1 Thông tư 18).
Trở lại với khái niệm “công nghệ” của Luật Chuyển giao công nghệ, khái niệm “công nghệ” trong Luật này chưa rõ ràng, đầy đủ. Lỗi logic trong khái niệm “công nghệ” của Luật Chuyển giao công nghệ mới là nguyên nhân chính của vấn đề. Vì “quy trình” là một khái niệm mang tính chất độc lập, còn “sản phẩm” sẽ bao hàm vật thể, chất thể, vật liệu sinh học, giống cây trồng, giống vật nuôi như đã đề cập ở trên.
5.2. Đánh giá thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng chuyển giao công nghệ
Điều 25, 26 Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của bên giao công nghệ cũng như bên nhận công nghệ, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với bên giao công nghệ, bên giao công nghệ có quyền sau đây: (1) Yêu cầu bên nhận công nghệ thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng; (2) Được thanh toán đầy đủ và hưởng quyền, lợi ích khác theo thỏa thuận trong hợp đồng; (3) Được thuê tổ chức, cá nhân thực hiện dịch vụ chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật; (4) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến công nghệ được chuyển giao; (5) Yêu cầu bên nhận công nghệ áp dụng biện pháp khắc phục, bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên nhận công nghệ không thực hiện đúng nghĩa vụ quy định trong hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; (6) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, đối với bên nhận công nghệ, bên nhận công nghệ có quyền sau đây: (1) Yêu cầu bên giao công nghệ thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng; (2) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp liên quan đến công nghệ được chuyển giao; (3) Được thuê tổ chức, cá nhân thực hiện dịch vụ chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật; (4) Yêu cầu bên giao công nghệ áp dụng biện pháp khắc phục, bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên giao công nghệ không thực hiện đúng nghĩa vụ quy định trong hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; (5) Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Cùng với đó, bên nhận công nghệ có nghĩa vụ sau đây: (1) Thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng; bồi thường thiệt hại cho bên giao công nghệ, bên thứ ba do vi phạm hợp đồng; (2) Giữ bí mật thông tin về công nghệ và thông tin khác trong quá trình đàm phán, ký kết, thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ theo thỏa thuận; (3) Đề nghị cấp Giấy phép chuyển giao công nghệ trong trường hợp chuyển giao công nghệ hạn chế chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; (4) Thực hiện nghĩa vụ về tài chính, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Với những quy định nêu trên, có thể thấy rằng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng chuyển giao công nghệ là một phần không thể thiếu trong việc xác định và quản lý mối quan hệ giữa các bên. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng giúp bảo vệ quyền lợi của cả bên giao và bên nhận công nghệ, đồng thời bảo đảm tính minh bạch và công bằng trong quá trình chuyển giao công nghệ. Có thể nói, việc quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng chuyển giao công nghệ không chỉ làm nền tảng pháp lý mà còn là cơ sở để xây dựng và duy trì mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa các bên. Điều này giúp bảo đảm tính minh bạch, công bằng và bảo vệ quyền lợi của cả hai bên trong quá trình chuyển giao công nghệ.
Về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng chuyển giao công nghệ, một đặc trưng có thể thấy được theo quy định của pháp luật Nhật Bản, đó là tuân thủ theo nguyên tắc: “Trung thực và tin tưởng” (Principle of Faith and Trust). Theo nguyên tắc này đòi hỏi các bên tham gia hợp đồng chuyển giao công nghệ phải tuân thủ sự tin tưởng và hành động trung thực. Điều 1, 2 (bổ sung), Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định: “Mọi người phải thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách đầy đủ và trung thực”10. Theo đó, nguyên tắc “Trung thực và tin tưởng” theo quy định của pháp luật dân sự của Nhật Bản được coi là nền tảng, cơ sở của việc giải thích các điều khoản của hợp đồng nói chung cũng như những quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh khi tham gia hợp đồng. Các bên tham gia quan hệ hợp đồng chuyển giao công nghệ cũng như các quy định pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ của Nhật Bản hướng tới là việc thực hiện trung thực, đầy đủ các nghĩa vụ của mình cũng như sự tin tưởng của các bên đối với nhau.
5.3. Đánh giá thực trạng quy định pháp luật Việt Nam trong hoạt động quản lý nhà nước về hợp đồng chuyển giao công nghệ
Về vai trò của Nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ, để thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam, Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 quy định bổ sung chính sách cụ thể đối với từng luồng chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, luồng chuyển giao công nghệ trong nước, luồng chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài; bổ sung chính sách hỗ trợ ý tưởng công nghệ, khởi nghiệp sáng tạo; đồng thời bổ sung chính sách ngăn chặn, loại bỏ công nghệ lạc hậu, công nghệ ảnh hưởng xấu đến kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, môi trường, sức khỏe, con người. Mặt khác, theo Luật Chuyển giao công nghệnăm 2017, thẩm quyền thẩm định công nghệ đối với dự án đầu tư có sử dụng vốn đầu tư công thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công. Thẩm quyền thẩm định hoặc có ý kiến về công nghệ đối với dự án quy định tại điểm a khoản 2 Điều 13 Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017, dự án đầu tư có nguy cơ tác động xấu đến môi trường có sử dụng công nghệ hạn chế chuyển giao được thực hiện theo: (1) Hội đồng thẩm định nhà nước thẩm định công nghệ đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội; (2) Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức liên quan có ý kiến về công nghệ đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ; (3) Cơ quan chuyên môn về khoa học và công nghệ thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức liên quan có ý kiến về công nghệ đối với dự án theo quy định.
Thẩm quyền thẩm định hoặc có ý kiến về công nghệ đối với dự án quy định tại điểm b khoản 2 Điều 13 Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 và thẩm quyền thẩm định hoặc có ý kiến về công nghệ của dự án được thực hiện như sau: (1) Hội đồng thẩm định nhà nước thẩm định về công nghệ đối với dự án quan trọng quốc gia; (2) Cơ quan chuyên môn về xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng chủ trì, phối hợp với cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực cùng cấp thẩm định về công nghệ đối với dự án nhóm A, B, C sử dụng vốn ngân sách nhà nước; (3) Cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực thẩm định hoặc có ý kiến về công nghệ đối với dự án nhóm A, B, C sử dụng vốn nhà nước ngoài ngân sách và vốn khác.
Thẩm quyền thẩm định công nghệ đối với dự án đầu tư quy định tại điểm b khoản 3 Điều 13 của Luật chuyển giao công nghệ năm 2017 được thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng. Thẩm quyền thẩm định công nghệ đối với dự án đầu tư quy định tại điểm c khoản 3 Điều 13 Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 được thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư công.
Như vậy, trách nhiệm trong quản lý hoạt động ứng dụng, chuyển giao công nghệ đã được quy định cụ thể. Theo đó, từng khâu, từng giai đoạn của quá trình chuyển giao công nghệ đều có người chịu trách nhiệm có ý kiến về công nghệ. Ví dụ trong giai đoạn quyết định chủ trương đầu tư, trách nhiệm xem xét nội dung công nghệ dự án đầu tư được quy định như sau: Hội đồng thẩm định nhà nước sẽ thẩm định công nghệ các dự án đầu tư do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan có ý kiến về công nghệ đối với dự án sử dụng công nghệ hạn chế chuyển giao thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ. Cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức xem xét và có ý kiến về công nghệ đối với dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường có sử dụng công nghệ, thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ. Cơ quan chuyên môn về khoa học và công nghệ thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan có ý kiến về công nghệ đối với dự án sử dụng công nghệ hạn chế chuyển giao và dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường, thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Nhìn vào sự phân công sẽ thấy rất rõ trách nhiệm của từng cơ quan, từng cấp, bộ ngành, địa phương11.
Tuy nhiên, về cơ chế phối hợp trong quá trình quản lý công nghệ và chuyển giao công nghệ, do có sự chồng chéo và kẽ hở trong hệ thống pháp luật về chuyển giao công nghệ, nên trong thực tế, cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ chỉ quản lý phần ngọn, vì khi chủ đầu tư dự án hoặc đối tác nước ngoài liên doanh hoặc đầu tư 100% vốn tại Việt Nam nộp hồ sơ cho cơ quan chức năng để đề nghị được cấp Giấy chứng nhận đầu tư, nhưng các cơ quan quản lý khoa học và công nghệ rất ít khi được hỏi ý kiến. Do đó, việc thẩm định phần công nghệ, thiết bị, máy móc của dự án bị xem nhẹ. Chính vì vậy, cơ quan quản lý về công nghệ không nắm được luồng công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam ngay từ khâu đầu vào, trừ những dự án đầu tư có điều kiện và những dự án đầu tư do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư. Chỉ đến khi dự án được cấp Giấy phép đầu tư, các bên lập hợp đồng chuyển giao công nghệ để đăng ký với cơ quan quản lý khoa học và công nghệ, lúc đó, cơ quan quản lý về công nghệ mới biết. Và đến thời điểm này, dù là công nghệ hiện đại hay lạc hậu thì nhà đầu tư cũng đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Như vậy, trong thời gian qua, tại các địa phương, cơ chế phối hợp giữa sở kế hoạch và đầu tư, ban quản lý các khu công nghiệp, sở khoa học và công nghệ, sở công thương, cơ quan thuế, hải quan… còn chưa được rõ ràng và triển khai đồng bộ, chủ yếu là phối hợp khi có vụ việc, cơ chế hậu kiểm còn ít được thực hiện. Do đó, một số công tác thẩm định và cho ý kiến về công nghệ của các dự án đầu tư còn bị xem nhẹ. Báo cáo từ các địa phương cho thấy, nhiều công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường đã được chuyển giao và lắp đặt tại các dự án. Từ cuối năm 2011, Trung Quốc thông báo sẽ loại bỏ 2.255 doanh nghiệp sử dụng công nghệ, thiết bị và máy móc lạc hậu. Nếu chúng ta không có những hành lang pháp lý đủ mạnh, đặc biệt là tình trạng thẩm định các dự án đầu tư có công nghệ đi kèm không được đẩy mạnh thì những công nghệ lạc hậu này sẽ “chảy” vào nước ta12.
6. Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ
Một là, về định nghĩa pháp lý về hợp đồng chuyển giao công nghệ, trong Luật Chuyển giao công nghệcần bổ sung định nghĩa pháp lý về hợp đồng chuyển giao công nghệ như sau: “Hợp đồng chuyển giao công nghệ là hợp đồng theo đó cá nhân, pháp nhân có quốc tịch Việt Nam là chủ sở hữu hoặc có quyền định đoạt đối với sản phẩm, quy trình, bí quyết hoặc các giải pháp khác có kèm hoặc không kèm công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm, chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng đó cho nhau hoặc cho cá nhân, pháp nhân nước ngoài”.
Hai là, về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng chuyển giao công nghệ, các nhà làm luật có thể xem xét và áp dụng nguyên tắc “Trung thực và tin tưởng” từ pháp luật Nhật Bản. Nguyên tắc này nhấn mạnh sự đáng tin cậy và tính trung thực giữa các bên, đồng thời, khuyến khích thực hiện đầy đủ các cam kết đã thỏa thuận. Để thực hiện kiến nghị này, cần bổ sung nguyên tắc “Trung thực và tin tưởng” vào khi giao kết hợp đồng nói chung, giao kết hợp đồng chuyển giao công nghệ nói riêng, tương tự như những điều khoản hiện hành trong Bộ luật Dân sự Nhật Bản. Điều này sẽ giúp định rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng chuyển giao công nghệ, làm căn cứ cho việc giải thích và thực thi các điều khoản hợp đồng.
Ba là, về hoạt động quản lý nhà nước về hợp đồng chuyển giao công nghệ, xuất phát từ nhận thức về sự cần thiết và tầm quan trọng của việc cải thiện cơ chế phối hợp trong quản lý chuyển giao công nghệ hay việc giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ, các nhà lập pháp cần tiến hành một loạt các điều chỉnh và bổ sung đối với quy định hiện hành. Điều này là cần thiết để bảo đảm quá trình này diễn ra một cách hiệu quả và không gây ra sự mơ hồ, xung đột hoặc lệch lạc trong việc thực thi.
Do đó, cần hoàn thiện các quy định về thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong pháp luật hành chính; bổ sung quy định về giải quyết tranh chấp sở hữu trí tuệ thông qua thương lượng, trọng tài. Cụ thể, về phương thức thương lượng, cần phải bổ sung các quy định pháp luật để giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng ở Việt Nam về thủ tục, cách ứng xử, nội dung thương lượng cũng như việc công nhận và chấp nhận nhanh chóng các thỏa thuận thương lượng bên ngoài tòa trọng tài chính thức hoặc thủ tục tố tụng tại tòa án. Việc bổ sung chi tiết các quy định này không chỉ cần thiết mà còn có ý nghĩa then chốt góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý giải quyết tranh chấp hợp đồng. Bên cạnh đó, đối với phương thức trọng tài, cần mở rộng định nghĩa về “hoạt động thương mại” tại Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 cho phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế, mở rộng phạm vi thẩm quyền xét xử của trọng tài. Theo đó, thay vì liệt kê cụ thể các loại tranh chấp cần giải quyết bằng trọng tài, có thể xác định và mở rộng phạm vi, đồng thời nêu rõ các nguyên tắc giải quyết tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Điều này liên quan đến nguyên tắc làm những gì pháp luật không cấm hoặc chỉ làm những gì pháp luật cho phép.
Cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành và các địa phương trong quản lý công nghệ và hợp đồng chuyển giao công nghệ cần được điều chỉnh để tăng cường sự hợp tác và liên kết giữa các bộ, cơ quan và tổ chức liên quan. Việc sửa đổi quy định về phân cấp quản lý hoạt động công nghệ và hợp đồng chuyển giao công nghệ là một phần không thể thiếu. Qua đó, giúp người dân và doanh nghiệp, từ cấp trung ương đến cấp địa phương đều hiểu rõ vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của mình trong quá trình này. Đồng thời, việc phân cấp quản lý cũng phản ánh đúng thực tế và đặc thù của từng bộ, cơ quan và địa phương, từ đó tạo ra một khung pháp lý linh hoạt và đáp ứng được các nhu cầu cụ thể. Ngoài ra, việc tăng cường công tác hậu kiểm trong quản lý công nghệ và hoạt động giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ là một phần không thể thiếu của quá trình cải thiện này.
7. Kết luận
Như vậy, từ việc phân tích, đưa ra khái niệm cụ thể về hợp đồng chuyển giao công nghệ trong pháp luật Việt Nam, trên cơ sở những hạn chế, tồn tại trong thực trạng pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ, tác giả đã có những đề xuất giải những pháp hoàn thiện quy định pháp luật về định nghĩa pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng chuyển giao công nghệ và hoạt động quản lý nhà nước về hợp đồng chuyển giao công nghệ. Những kết quả đạt được nêu trong bài có thể giúp cho các nhà lập pháp tham khảo trong quá trình sửa đổi và bổ sung các quy định pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ trong pháp luật Việt Nam. Đồng thời, cũng có giá trị đối với các cơ quan có thẩm quyền để áp dụng pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ một cách đúng đắn và hiệu quả hơn.
Chú thích:
1. Nguyễn Duy Bắc (2023). Đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách và huy động nguồn lực cho phát triển văn hóa. https://www.tapchicongsan.org.vn, truy cập ngày 23/3/2024.
2. Hà Thị Thanh Vân (2005). Mối quan hệ giữa chính sách và pháp luật. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 6, tr. 66.
3. Nguyễn Thị Hương (2019). Chuyển giao công nghệ trong điều kiện hiện nay ở nước ta. https://www.tapchicongsan.org.vn/van_hoa_xa_hoi/-/2018/54512/chuyen-giao-cong-nghe-trong-dieu-kien-hien-nay-o-nuoc-ta.aspx
4. Hoàng Trung Hiếu (2024). Hạn chế quyền tự do giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam. https://lsvn.vn/han-che-quyen-tu-do-giao-ket-hop-dong-theo-phap-luat-viet-nam-1706894885.html.
5. Lê Ngọc Bích (2004). Pháp luật về chuyển giao công nghệ, thực trạng và phương hướng hoàn thiện. Luận văn thạc sĩ luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội. Hà Nội, tr. 10.
6. Valérie Duplata, Fabrice Lumineaub (2015). Third Parties and Contract Design: The Case of Contracts for Technology Transfer. MANAGERIAL AND DECISION ECONOMICS. 2015. DOI: 10.1002/mde.2729, tr. 1.
7. P.H Collin. Dictionary of Law (2004). London. Bloomsbury Publishing Plc. pp. 68.
8. Hoàng Phê (chủ biên) (2003. Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng, tr. 466.
9. Nguyễn Đức Hiếu (2000). Bàn về hợp đồng chuyển giao công nghệ trong pháp luật dân sự. Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. tr. 23 – 25.
10. Phạm Văn Khánh (2006). Hợp đồng li – xăng trong pháp luật dân sự Việt Nam. Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 32.
11. Hạnh Nguyên (2017). Đổi mới quản lý nhà nước về chuyển giao công nghệ. https://hanoimoi.vn/doi-moi-quan-ly-nha-nuoc-ve-chuyen-giao-cong-nghe-595539.html
12. Phạm Chí Trung (2016). Hoàn thiện chính sách và pháp luật về chuyển giao công nghệ. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12 (316), tr. 53.