TS. Trần Thị Hương Huế
Học viện Hành chính Quốc gia
(Quanlynhanuoc.vn) – Xây dựng văn hóa lãnh đạo, quản lý là vấn đề đặt ra trong công cuộc xây dựng đất nước giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo, quản lý”1 là một nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, để xây dựng văn hóa lãnh đạo, quản lý đòi hỏi phải nhận diện đúng, hay nói cách khác là xác định được các yếu tố của văn hóa lãnh đạo, quản lý là gì? Từ đó, mới có cơ sở để suy nghĩ về cách thức, biện pháp xây dựng văn hóa lãnh đạo, quản lý.
Từ khóa: Văn hóa lãnh đạo, quản lý; các yếu tố của văn hóa lãnh đạo, quản lý; chuẩn mực văn hóa; giá trị văn hóa.
1. Đặt vấn đề
Xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý không chỉ có ý nghĩa đối với sự vận hành của tổ chức và mỗi cá nhân trong tổ chức ấy mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc. Xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý góp phần định hình và dẫn dắt văn hóa, kiến tạo bản sắc của cơ quan, tổ chức. Chính vì vậy, xây dựng văn hóa trong lãnh đạo, quản lý là một công việc vừa cấp thiết vừa lâu dài và muốn xây dựng thành văn hóa đòi hỏi phải nhận diện đúng được các yếu tố của văn hóa lãnh đạo, quản lý.
2. Văn hóa
Văn hóa là một phạm trù được nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, từ đó dẫn tới có nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa. Theo giáo sư Phan Ngọc thì hiện nay có đến 400 định nghĩa khác nhau về văn hóa2. Trong phạm vi bài viết, đề cập khái niệm văn hóa hướng đến việc làm rõ các yếu tố cấu thành văn hóa.
Một định nghĩa văn hóa có tính phổ biến trong nghiên cứu về văn hóa của Việt Nam đó là của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong cách tiếp cận rộng nhất về văn hóa, Người cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”3. Đây là một định nghĩa được các nhà nghiên cứu đánh giá là: “một cách hiểu văn hóa theo nghĩa đầy đủ, toàn diện, hoàn chỉnh nhất”4. Trong cách tiếp cận này, văn hóa được hiểu theo nghĩa rất rộng, nội dung văn hóa là tất cả những sáng tạo của loài người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Văn hóa là hiện tượng xã hội mang tính bản chất của sự vật hiện tượng, văn hóa hiện diện và thẩm thấu trong từng hoạt động và trong mọi lĩnh vực của đời sống con người. Xuất phát điểm của các sáng tạo và phát minh hay chính là văn hóa này là vì lẽ sinh tồn và mục đích cuộc sống của con người.
Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 là một văn kiện quan trọng, được ví như là “tuyên ngôn, cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta về văn hóa và cách mạng”5 do Tổng bí thư Trường Chinh khởi thảo đã xác định nội dung của văn hóa ngay trong phần mở đầu của Đề cương, trong mục Cách đặt vấn đề khi xác định Phạm vi vấn đề đã cho rằng, văn hóa bao gồm tư tưởng, học thuật và nghệ thuật.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, PGS. TS. Nguyễn Duy Bắc đã phân tích và chỉ ra các nội dung/các yếu tố cấu thành của văn hóa bao gồm: (1) Tư tưởng “nói đến văn hóa là nói đến tư tưởng vì hệ tư tưởng là “cốt lõi” của văn hóa, chi phối quan niệm về giá trị tinh thần, về đạo đức, lối sống và hành vi con người”; (2) Đạo đức, “Đạo đức điều chỉnh hành vi và hoạt động của con người và xã hội, hướng đến và làm theo cái thiện, cái tốt, lương tâm và thiện lương”; (3) Khoa học, “khoa học là sáng tạo và khát khao của con người vươn tới cái đúng, chân lý khách quan…”; (4) Pháp luật, “Pháp luật điều tiết, điều chỉnh hoạt động của con người và xã hội, đảm bảo cho mọi người “sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật”…”; (5) Nghệ thuật “lĩnh vực nhạy cảm và tinh tế nhất của văn hóa…” và cho rằng “Văn hóa (với các thành tố cấu thành cơ bản nêu trên) dẫn dắt, định hướng sự phát triển của con người và xã hội”6. Như vậy, xem xét văn hóa từ góc độ các yếu tố cấu thành của văn hóa để nhận diện rõ ràng hơn về văn hóa và là cơ sở để xác định các yếu tố cấu thành văn hóa lãnh đạo, quản lý.
3. Văn hóa lãnh đạo, quản lý
Bàn đến văn hóa lãnh đạo, quản lý, trước hết phải khẳng định văn hóa lãnh đạo, quản lý là một bộ phận của văn hóa nói chung. Văn hoá lãnh đạo, quản lý được xem xét trong các phạm trù khác nhau: (1) Văn hóa lãnh đạo, quản lý thuộc phạm trù văn hóa chính trị – văn hóa giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Nhìn nhận văn hóa trong điều kiện Đảng cầm quyền và xem xét trong mối liên hệ giữa văn hóa lãnh đạo của Đảng và văn hóa quản lý của Nhà nước trong cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. (2) Xem xét văn hóa lãnh đạo, quản lý trong mối quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý, nhà lãnh đạo và nhà quản lý, giữa chủ thể lãnh đạo và quản lý với đối tượng của lãnh đạo và quản lý, giữa văn hóa lãnh đạo với văn hóa quản lý (phạm vi bài viết, bàn đến phạm trù thứ hai: văn hóa trong mối quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý và thực thi hoạt động lãnh đạo, quản lý của cá nhân người lãnh đạo, quản lý).
Có ý kiến cho rằng: “Văn hóa lãnh đạo, quản lý được hiểu là tập hợp những giá trị, niềm tin, thái độ, cách ứng xử, chuẩn mực trong tư duy và hành động thực tiễn của người lãnh đạo, quản lý trong hoạt động của tổ chức và trong thực thi công vụ7. Trong định nghĩa này, các yếu tố cấu thành của văn hóa lãnh đạo, quản lý bao gồm: giá trị, niềm tin, thái độ, cách ứng xử và chuẩn mực.
Về văn hóa lãnh đạo, có quan điểm: “văn hoá lãnh đạo là hệ thống những chuẩn mực, ý nghĩa, giá trị, niềm tin chủ đạo, với những biểu trưng khác nhau, được hình thành trong tổ chức, được các chủ thể tham gia quá trình lãnh đạo cùng đồng thuận, tạo nên phong cách lãnh đạo độc đáo của mình và có ảnh hưởng ở phạm vi rộng lớn đến cách thức hành động của toàn bộ thành viên trong tổ chức, nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra8. Các yếu tố cấu thành văn hóa bao gồm: chuẩn mực, ý nghĩa, giá trị, niềm tin chủ đạo với những biểu trưng khác nhau.
Về các yếu tố của văn hóa lãnh đạo, quản lý, bao gồm các chuẩn mực về: (1) học vấn, học thức; (2) đạo đức, lối sống, nhân cách; (3) tính tiên phong, gương mẫu, tinh thần trách nhiệm; (4) tự tu dưỡng bản thân, phê bình và tự phê bình; (5) quan tâm tới con người và hạnh phúc của Nhân dân. Đồng thời, khẳng định: “Năm chuẩn mực văn hóa lãnh đạo, quản lý nêu trên là gợi ý, định hướng quan trọng để xác định các nhiệm vụ xây dựng văn hóa và văn hóa lãnh đạo, quản lý”9.
4. Các yếu tố của văn hóa lãnh đạo, quản lý
Có nhiều cách xác định các yếu tố cấu thành văn hóa lãnh đạo, quản lý, tuy nhiên có thể phân chia thành 4 nhóm sau đây:
Một là, hệ thống tư tưởng, tri thức, đạo đức, uy tín của người lãnh đạo, quản lý – những yếu tố thuộc về phẩm chất bên trong của người lãnh đạo, quản lý.
(1) Tư tưởng về hoạt động lãnh đạo, quản lý. Tư tưởng lãnh đạo, quản lý là hệ thống quan điểm của người lãnh đạo, quản lý về công việc quản lý dựa trên các học thuyết về lãnh đạo, quản lý. Tư tưởng về hoạt động lãnh đạo, quản lý sẽ là cơ sở nền tảng cho các triết lý, nguyên tắc, phong cách, phương pháp, hành vi ứng xử của người lãnh đạo, quản lý.
(2) Tri thức về hoạt động lãnh đạo, quản lý. Đó là sự hiểu biết sáng rõ về bản chất, đặc điểm của hoạt động lãnh đạo, quản lý. Giữa lãnh đạo, quản lý có những điểm chung song cũng có những điểm khác biệt, cần nhận diện và phân biệt rõ. Lãnh đạo là hướng vào con người, là một quá trình gây ảnh hưởng đến hoạt động của cá nhân hoặc tổ chức hướng đến sự phấn đấu một cách tự nguyện cho những mục tiêu chung của tổ chức trong những điều kiện nhất định. Ảnh hưởng của hoạt động lãnh đạo có được từ niềm tin của những người khác, nhờ khả năng chuyên môn, khả năng xác định, hiểu tình cảm hoặc khó khăn của người khác. Như vậy, cốt lõi của hoạt động lãnh đạo là xác định tầm nhìn, gây dựng ảnh hưởng và truyền cảm hứng. Còn các nhà quản lý có quyền hạn để thực thi công việc, họ có thể đạt được điều đó bằng sức mạnh, dùng chế độ thưởng – phạt, sử dụng cương vị của mình, buộc người khác phải tuân theo10. Tri thức về hoạt động lãnh đạo, quản lý giúp cho họ thấy được bản chất của hoạt động này, từ đó tìm ra các giá trị cốt lõi để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ lãnh đạo và quản lý.
(3) Đạo đức của người lãnh đạo, quản lý. Đạo đức là cốt lõi văn hóa, là cái gốc của con người nói chung, người làm công tác lãnh đạo, quản lý nói riêng. Đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó, con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội. Các giá trị đạo đức cần có của người lãnh đạo, quản lý cũng phải dựa trên những chuẩn mực con người Việt Nam nói chung, đồng thời phải gắn với đặc thù công việc lãnh đạo, quản lý, do vậy những phẩm chất đạo đức cơ bản bao gồm: bản lĩnh, chính trực, nhiệt huyết; khách quan, công tâm, thấu hiểu; gương mẫu, có trách nhiệm cao với công việc; có tinh thần học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn; có tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng chịu trách nhiệm…
(4) Uy tín của người lãnh đạo, quản lý. Uy tín là đức tính không thể thiếu của người lãnh đạo, quản lý, thuộc về yếu tố đạo đức nhưng có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định hiệu quả của hoạt động lãnh đạo, quản lý. Uy tín là sự tin tưởng, là niềm tin của các cá nhân trong tổ chức đối với người lãnh đạo, quản lý của họ. Uy tín được xây dựng trên sự thừa nhận và tôn trọng bằng chính năng lực, đạo đức và tài năng trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
Hai là, tầm nhìn, giá trị, triết lý lãnh đạo, quản lý – những yếu tố thể hiện năng lực vượt trội của người lãnh đạo, quản lý.
(1) Tầm nhìn là ý tưởng thể hiện ước mơ, hoài bão, khát vọng của người lãnh đạo, quản lý hoặc của tổ chức về một sự biến đổi mạnh mẽ nhằm đạt được vị thế xứng đáng trong tương lai cần phải có cho tổ chức hay cộng đồng xã hội, quốc gia11. Suy nghĩ và xây dựng tầm nhìn thuộc về bản chất của hoạt động lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là hoạt động lãnh đạo, nó thuộc về năng lực khác biệt, vượt trội của người lãnh đạo, quản lý để định ra hướng phát triển của tổ chức. Tầm nhìn sẽ là nguồn động lực thúc đẩy, truyền cảm hứng và khuyến khích mọi người trong tổ chức đồng lòng hợp tác, đoàn kết, vượt khó khăn cùng tiến lên để đạt được.
(2) Giá trị là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái gì là cần, là tốt, là hay, là đẹp; nói cách khác, đó chính là những cái được con người cho là chân, thiện, mỹ12. Giá trị văn hóa phản ánh các nguyên tắc và niềm tin cốt lõi mà người lãnh đạo, quản lý muốn thể hiện và tuân thủ, có vai trò định hướng mục tiêu, phương thức lãnh đạo, quản lý và hành động thực tiễn của người lãnh đạo quản lý. Các giá trị văn hóa lãnh đạo, quản lý do cách nhìn nhận của nhà lãnh đạo, quản lý. Tuy nhiên, những giá trị phổ quát và đã được thể chế hóa, như: vì dân phục vụ, chuyên nghiệp, minh bạch, trách nhiệm, nêu gương… cần được hình thành và lan toả trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của mọi cơ quan, tổ chức.
(3) Triết lý là những điều được rút ra từ trải nghiệm thực tế, đóng vai trò như quan niệm nền tảng để nhìn nhận, đánh giá một hiện tượng, nó được coi là tinh thần chủ đạo, là định hướng cho hành động. Trong xây dựng văn hóa lãnh đạo, quản lý, việc đúc rút ra triết lý lãnh đạo quản lý và tuyên bố triết lý có ý nghĩa thống nhất mục tiêu, cách thức hành động cho mọi thành viên trong tổ chức, gắn kết mọi người và tạo nên sức mạnh từ sự hợp lực để thực hiện theo tôn chỉ trong triết lý đã đề ra.
Ba là, phong cách, phương pháp lãnh đạo, quản lý. Phong cách lãnh đạo là phương thức và cách tiếp cận của một nhà lãnh đạo để đề ra các phương hướng, thực hiện các kế hoạch và tạo động lực cho nhân viên. Việc xây dựng cho mình một phong cách lãnh đạo, quản lý nhất quán giúp người lãnh đạo, quản lý định hình một kiểu làm việc, một thói quen, một nền nếp trong cách thức giải quyết công việc, từ đó hình thành văn hóa trong tổ chức. Phong cách lãnh đạo, quản lý phụ thuộc vào yếu tố cá nhân, song những quy định về chuẩn mực người đứng đầu, nguyên tắc trong quá trình thực thi công vụ cũng quy định việc định hình phong cách lãnh đạo, quản lý, đó là việc bảo đảm dân chủ, lắng nghe, tôn trọng cấp dưới đồng thời phải quyết đoán, chịu trách nhiệm với tư cách người đứng đầu.
Bốn là, chuẩn mực giao tiếp, ứng xử của người lãnh đạo, quản lý. Giao tiếp, ứng xử là biểu hiện rõ ràng, cụ thể nhất của văn hóa lãnh đạo, quản lý.
5. Kết luận
Việc nhận diện các yếu tố cấu thành văn hóa lãnh đạo, quản lý có ý nghĩa quan trọng trong việc đề ra các biện pháp để xây dựng văn hoá lãnh đạo, quản lý. Các yếu tố cấu thành văn hóa lãnh đạo, quản lý có thể được nhìn nhận từ nhiều góc cạnh khác nhau song cốt lõi là tư tưởng, đạo đức, tri thức cùng với tầm nhìn, giá trị, triết lý lãnh đạo quản lý. Từ đó, hình thành phong cách, phương pháp lãnh đạo và biểu hiện ra bên ngoài bằng chuẩn mực giao tiếp, ứng xử là những yếu tố cơ bản nhất.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 144.
2. Phan Ngọc (1994). Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới. H. NXB Văn hóa thông tin.
3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 458.
4, 6. Nguyễn Duy Bắc (2020). Chủ tịch Hồ Chí Minh và những tư tưởng “soi đường” về văn hóa, nghệ thuật. http://lyluanchinhtri.vn, ngày 24/8/2020.
5. Nguyễn Thế Kỷ (2023). Từ đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 và 80 năm “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. https://www.tuyengiaokontum.org.vn, ngày 28/02/2023.
7. Học viện Hành chính Quốc gia (2022). Tài liệu bồi dưỡng lãnh đạo, quản lý cấp phòng. Tài liệu lưu hành nội bộ, tr. 34.
8, 10. Phạm Ngọc Thanh (2013). Văn hóa lãnh đạo, quản lý trước yêu cầu đổi mới và phát triển xã hội hiện nay. http://lyluanchinhtri.vn, ngày 17/10/2013.
9. Hoàng Chí Bảo (2023). Đề xuất một số chuẩn mực văn hoá và nhiệm vụ xây dựng văn hóa lãnh đạo, quản lý. https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 02/11/2023.
11. Lê Văn Đính (2021). Xây dựng tầm nhìn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. https://hcma3.hcma.vn, ngày 20/4/2021.
12. Bùi Hoài Sơn (2022). Giá trị văn hóa Việt Nam nhìn từ các chiều cạnh giá trị quốc gia, vùng, miền, tộc người. https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 10/8/2022.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2016). Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 về đẩy mạnh, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Nguyễn Thị Hà (2024). Văn hóa đổi mới sáng tạo với quá trình chuyển đổi số. Tạp chí Quản lý nhà nước số 338, tháng 3/2024.
4. Trần Văn Hoan (2023). Nâng cao văn hóa lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo ở các nhà trường quân đội. https://www.quanlynhanuoc.vn, ngày 11/4/2023.
5. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập I, II. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.