Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay

TS. Đoàn Văn Tự
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong quá trình vận hành của hệ thống chính trị của Nhà nước ta hiện nay, mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” là vấn đề lớn, cơ bản, có ý nghĩa bao trùm, xuyên suốt và được xác định là một nguyên tắc chi phối toàn bộ đời sống xã hội. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích, mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân, lấy hạnh phúc của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. 

Từ khóa: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin; mối quan hệ; vận dụng; Đảng lãnh đạo; Nhà nước quản lý; Nhân dân làm chủ.

1. Đặt vấn đề

Xuất phát từ sự xác định của Đảng Cộng sản Việt Nam đó là, Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động; từ vị trí, vai trò quan trọng của mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ đặt ra yêu cầu, dẫn đến sự cần thiết phải nghiên cứu sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ này. Trên cơ sở đó, tạo cơ sở lý luận vững chắc để tiếp tục có những định hướng đúng đắn cho vận hành hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, hướng đến “xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân”, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” ở nước ta hiện nay.

2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bản chất của mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ

Một là, về Đảng Cộng sản: các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin  đã chỉ ra những vấn đề lý luận cơ bản. Đối với C.Mác và Ph.Ăngghen, trong suốt quá trình hoạt động đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân của mình, các ông đã nêu lên những tư tưởng cơ bản về Đảng cách mạng của giai cấp công nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định, sự ra đời của Đảng Cộng sản là một tất yếu khách quan. Theo hai ông: “trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”1. Giai cấp vô sản muốn giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh của mình thì cần phải tổ chức được chính đảng độc lập của giai cấp mình. C.Mác viết: “Trong cuộc đấu tranh của mình chống lại quyền lực liên hợp của giai cấp hữu sản, giai cấp vô sản chỉ khi nào tự tổ chức được thành một chính đảng độc lập để đối lập với tất cả mọi chính đảng cũ do các giai cấp hữu sản lập ra, thì mới có thể hành động với tư cách giai cấp được”2.

Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định bản chất cách mạng và khoa học của Đảng Cộng sản. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, hai ông viết: Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận cổ vũ tất cả những bộ phận khác, về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản. Thuộc tính đó đã nói lên bản chất cách mạng và khoa học của Đảng, chỉ rõ rằng những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác. Đảng là đội tiên phong có tổ chức của giai cấp công nhân, bộ phận giác ngộ nhất, tích cực nhất của giai cấp và luôn đấu tranh để bảo vệ lợi ích của giai cấp.

Bên cạnh đó, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ rõ: Đảng chỉ có thể trở thành đảng chân chính, cách mạng và lớn mạnh khi gắn chặt với phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân lao động. Trong suốt quá trình nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen luôn khẳng định vai trò to lớn của quần chúng trong lịch sử và chính thống qua phong trào cách mạng của quần chúng mà đảng trưởng thành và lớn mạnh không ngừng. Năm 1895, khi viết lời tựa cho cuốn “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, Ph.Ănghen đã viện dẫn những số liệu minh chứng cho sự tín nhiệm của quần chúng đối với đảng thông qua lá phiếu tín nhiệm. Ph.Ăngghen coi đây là bài học lịch sử cho các đảng cách mạng của giai cấp công nhân, bài học về sức mạnh của đảng chỉ có thể có được trong sức mạnh của quần chúng và trong phong trào cách mạng sục sôi của họ.

Lý luận về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân mà V.I.Lênin phát kiến là một trong những cống hiến vĩ đại đối với sự nghiệp phát triển của học thuyết Mác. Theo V.I.Lênin, nguyên tắc cơ bản về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân là: lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động; là người lãnh đạo quảng đại quần chúng giai cấp công nhân; tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào Đảng. Khi có chính quyền, cuộc đấu tranh giai cấp chưa chấm dứt, mà tiếp tục diễn ra dưới những nội dung, hình thức và phương pháp mới. Để phối hợp hành động và hướng hoạt động của cả hệ thống chính trị vào xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản “về nguyên tắc, Đảng Cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo”. 

Như vậy, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã vạch ra rất rõ về bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, về mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản với quần chúng nhân dân lao động.

Hai là, cùng với việc chỉ rõ bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đưa ra những vấn đề lý luận về nhà nước, trong đó có nhà nước kiểu mới của giai cấp công nhân – Nhà nước xã hội chủ nghĩa. 

Ph.Ăngghen đã khẳng định, nhà nước ra đời là kết quả của sự phân công lao động xã hội, dẫn đến sự phân chia xã hội thành giai cấp và từ mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được đưa đến sự ra đời của nhà nước. Ph.Ăngghen viết: “Nhà nước là sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định, nó là sự thú nhận rằng xã hội đó bị lúng túng trong một mối mâu thuẫn với bản thân mà không sao giải quyết được, rằng xã hội đó đã bị phân thành những mặt đối lập không thể điều hoà mà xã hội đó bất lực không sao loại bỏ được”3.

Kế thừa quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã làm rõ hơn về điều kiện ra đời, hình thành của nhà nước, đó là: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ đâu, hễ lúc nào và chừng nào, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”4

Về bản chất của nhà nước, từ cơ sở kinh tế – xã hội cho sự ra đời của nhà nước, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ rõ, nhà nước ra đời và tồn tại, phát triển trong xã hội có giai cấp, vì thế, nhà nước trước hết và bao giờ cũng là thiết chế bảo vệ địa vị thống trị của giai cấp thống trị trong một xã hội nhất định, gắn với một hình thái kinh tế – xã hội nhất định. Vì thế, V.I.Lênin đã viết: “Cách mạng không phải ở chỗ giai cấp mới dùng bộ máy nhà nước cũ để chỉ huy và quản lý, mà ở chỗ khi đã đập tan bộ máy ấy đi rồi thì giai cấp mới sẽ dùng một bộ máy mới để chỉ huy và quản lý”5.

Tuy nhiên, bên cạnh thực hiện chức năng chuyên chính và là bộ máy bạo lực chuyên nghiệp của giai cấp thống trị, Nhà nước còn phải thực hiện chức năng xã hội nhằm duy trì trật tự xã hội và điều hòa lợi ích trong xã hội theo trật tự mà giai cấp thống trị hướng đến. Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó”6. Do vậy, không có một nhà nước nào có thể tồn tại và phát triển được nếu chỉ duy trì chức năng giai cấp mà không thực hiện chức năng xã hội. Trong bất cứ hình thái kinh tế – xã hội nào, giai cấp thống trị mặc dù có địa vị kinh tế – xã hội quan trọng và quyết định đối với giai cấp khác, nhưng cũng chỉ là bộ phận của xã hội mà không thể là toàn thể xã hội, vì thế ngoài việc bảo vệ quyền lợi và địa vị thống trị của mình, giai cấp thống trị phải điều hòa lợi ích và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các giai tầng khác ngay cả giai cấp đối lập với mình trong xã hội. 

Đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước phải là một công cụ, một phương tiện, đồng thời, là một biểu hiện tập trung trình độ dân chủ của nhân dân lao động. Dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa chính là nhân dân tham gia vào mọi công việc của nhà nước. Điều cần thiết không phải chỉ là cơ quan đại biểu theo kiểu chế độ dân chủ, mà là toàn bộ việc quản lý nhà nước từ dưới lên phải do bản thân quần chúng tổ chức, quần chúng thực sự tham gia vào từng bước của cuộc sống và đóng vai trò tích cực trong việc quản lý. Vì thế, V.I.Lênin trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Nga Xô viết đã yêu cầu phải xây dựng bộ máy nhà nước gọn nhẹ, tinh giản, tổ chức khoa học, hoạt động hiệu quả và tiết kiệm theo nguyên tắc “thà ít mà tốt”, nghĩa là coi trọng chất lượng, không chạy đua theo số lượng; cán bộ, công chức phải có năng lực, bản lĩnh chính trị vững vàng.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng chỉ rõ, để thực hiện chức năng quản lý, nhà nước phải sử dụng pháp luật. Pháp luật là công cụ quan trọng nhất để nhà nước duy trì trật tự xã hội một cách hợp pháp theo ý chí của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, trong xã hội dân chủ, pháp luật không chỉ là công cụ để nhà nước quản lý xã hội mà còn là công cụ để quản lý chính bản thân mình. C.Mác khẳng định: “Không một người nào, ngay cả nhà lập pháp ưu tú nhất, cũng không được đặt cá nhân mình cao hơn luật pháp do mình bảo vệ”7. Để phục vụ tốt cho yêu cầu quản lý xã hội và kiểm soát quyền lực nhà nước, pháp luật phải là đại lượng chung, tiến bộ, vì con người.

Ba là, về vai trò của quần chúng nhân dân, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin luôn khẳng định quan điểm quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử, cách mạng phải là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. C.Mác viết: “Không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra chế độ nhà nước”8. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, vai trò của quần chúng nhân dân đặc biệt thể hiện rõ hơn trong thời kỳ cách mạng: “Hoạt động lịch sử càng lớn lao thì do đó, quần chúng, mà hoạt động lịch sử đó là sự nghiệp của mình, cũng sẽ lớn lên theo”9. Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện lịch sử  mới, V.I.Lênin, khẳng định: “Không có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được…”10.

Là chủ thể của lịch sử nhưng quần chúng nhân dân chỉ có thể phát huy tối đa sức mạnh và vai trò sáng tạo một khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận chứng một cách khoa học về vai trò của Đảng Cộng sản như một điều kiện chủ quan có ý nghĩa quyết định đối với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Để đảm bảo cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành thắng lợi, giai cấp công nhân phải tự tổ chức ra được chính đảng độc lập, các đảng đó phải biết thuyết phục, giác ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện quần chúng và đưa quần chúng ra đấu tranh; mặt khác, bản thân quần chúng phải tự mình tham gia vào cuộc cách mạng ấy. 

Cũng về mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng cộng sản với quần chúng nhân dân, V.I.Lênin đã cho rằng: “Không một phong trào cách mạng nào mà lại vững chắc được nếu không có một tổ chức ổn định và duy trì được tính liên tục gồm những người lãnh đạo; càng có đông đảo quần chúng được thu hút tự phát vào cuộc đấu tranh, tạo thành cơ sở cho phong trào và tham gia phong trào, thì càng cấp thiết phải có một tổ chức như thế và tổ chức ấy lại càng phải vững chắc”11. Hơn nữa, V.I.Lênin còn khẳng định vấn đề có tính nguyên tắc về vai trò lãnh đạo và mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng: “Về nguyên tắc, đảng cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn nghi ngờ gì được nữa”12, “một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”13.

Những phân tích trên đây đã khẳng định rõ quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin về sự xuất hiện, bản chất, vai trò của Đảng Cộng sản, của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, về vai trò, sứ mệnh của quần chúng nhân dân. Thông qua đó, cũng đã chỉ ra được mối quan hệ hữu có giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ. Mối quan hệ cơ bản này mang tính tất yếu khách quan. Đặc biệt, trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, với tính chất của cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp hiện nay thì việc giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ cần phải được đứng vững trên những nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời có sự phát triển sáng tạo cho phù hợp hoàn cảnh, tình hình mới.

3. Tính tất yếu khách quan trong vận dụng mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam hiện nay

Đối với Việt Nam, tính tất yếu khách quan của mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ được xuất phát từ mấy lý do cơ bản, đó là:

Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội ở Việt Nam hiện nay. Theo Hiến pháp năm 2013, Nhà nước ta là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”, “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”, tổ chức và hoạt động theo một nguyên tắc mới về chất so với trước đây “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy, bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã được pháp luật quy định. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để xác định mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ.

Thứ hai, xuất phát từ những hạn chế, bất cập nảy sinh trong quá trình thực hiện mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý. Nhân dân làm chủ thời gian qua. Mặc dù mối quan hệ này ngày càng được hoàn thiện, củng cố cả về lý luận và thực tiễn nhưng vẫn tồn tại cả trong nhận thức và hành động về việc quá nhấn mạnh một chiều vai trò lãnh đạo của Đảng mà coi Nhân dân làm chủ như là hệ quả, là kết quả đương nhiên của sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Đảng lãnh đạo toàn diện hệ thống chính trị, nhưng có những lúc, những nơi chưa nâng tầm vai trò của hai yếu tố còn lại, dẫn đến một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng và Nhà nước chưa thực sự nhận thức và hành động đúng về mối quan hệ giữa ba yếu tố này. Quyền lực chính trị của Đảng rất lớn nhưng hiệu quả và chất lượng kiểm soát quyền lực của người đứng đầu cấp ủy các cấp quản lý nhà nước trên thực tế chưa tốt. Vì thế, không ít cá nhân giữ trọng trách của Đảng và Nhà nước ở các cấp có điều kiện thao túng quyền lực, độc đoán, chuyên quyền, hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo.

Thứ ba, trong thời gian qua, các thế lực thù địch thường xuyên xuyên tạc, chống phá là mô hình và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Để thực hiện các mưu đồ chống phá, các phần tử cơ hội chính trị còn ráo riết đưa người ứng cử tự do vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Khi các ứng viên này không đạt được tiêu chuẩn tín nhiệm qua các vòng hiệp thương do Mặt trận Tổ quốc các cấp chủ trì thì thế lực này lại yêu cầu “phải xóa bỏ cơ chế hiệp thương”, đòi hỏi phải xây dựng “xã hội dân sự” để các tổ chức quần chúng hoạt động độc lập, như là lực lượng đối trọng, đối lập với đảng cầm quyền, để kiểm soát quyền lực của Đảng, Nhà nước, để xây dựng cơ sở xã hội cho các đảng đối lập ở Việt Nam.

4. Giải pháp vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ ở Việt Nam hiện nay

Ngày nay, bối cảnh xã hội hiện đại đang tác động đến mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ và có sự thay đổi căn bản. Đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta xây dựng đã có bước phát triển nhất định, bộc lộ đầy đủ các quy luật vận động của nó. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng theo những nguyên tắc mới, chủ quyền Nhân dân, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước được đề cao. Dân trí và dân chủ của đông đảo các tầng lớp nhân dân được nâng lên một trình độ mới. Hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ về kinh tế mà còn trên tất cả các mặt văn hóa, khoa học, công nghệ,… Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi tư duy và lối sống của con người. Bối cảnh đó, đòi hỏi phải đổi mới nhận thức và cách thức giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Để củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, cần chú trọng đến những giải pháp cơ bản sau: 

Một là, tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với điều kiện mới theo định hướng tạo lập điều kiện và môi trường thuận lợi hơn để các thiết chế của bộ máy nhà nước vận hành năng động, sáng tạo, làm đúng, làm đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình, không dựa dẫm, ỷ lại. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm soát quyền lực nhà nước để kịp thời phòng, chống sự thao túng quyền lực của những người đứng đầu các cơ quan nhà nước, các tổ chức đảng và hệ thống chính trị. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể của Nhân dân theo định hướng phát huy mạnh mẽ hơn nữa quyền làm chủ của Nhân dân; dân chủ phải thực sự trở thành động lực của sự phát triển trong điều kiện mới. 

Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân thực sự là một Nhà nước dân chủ, pháp quyền, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Tiếp tục nâng cao nhận thức, thực hiện đúng đắn nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp để sửa đổi, bổ sung các luật về tổ chức bộ máy nhà nước nhằm xây dựng một bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, trước hết là kiểm soát được bản thân mình và sau đó là kiểm soát xã hội. Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền, ủy quyền giữa Trung ương và chính quyền địa phương theo Hiến pháp năm 2013 và các nghị quyết của Đảng. Xây dựng một Quốc hội mạnh và thực quyền về lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước; một Chính phủ năng động, sáng tạo, quản lý nhà nước có hiệu lực và hiệu quả; một nền tư pháp vì công lý, vì quyền con người, quyền công dân. Kiểm soát quyền lãnh đạo của Đảng và quyền lực nhà nước là nguyên tắc cực kỳ quan trọng trong tổ chức quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo đó, quyền lãnh đạo của Đảng cũng như quyền lực nhà nước được Nhân dân ủy quyền, Nhân dân giao quyền là có giới hạn mà không phải vô hạn. Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản 3 điều 2). Do đó, cần hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước và giữa các tổ chức của hệ thống chính trị. Thể chế hóa vai trò của Nhân dân kiểm tra, giám sát các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ thực sự của Nhân dân. Để dân chủ xã hội chủ nghĩa trở thành mục tiêu và động lực của sự phát triển đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải thực sự dân chủ trong tổ chức và hoạt động của mình và đặc biệt phải tiếp tục tạo lập môi trường và điều kiện để Nhân dân thực sự làm chủ trên thực tế. Trong mọi hoạt động, Đảng và Nhà nước luôn phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân; tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”16. Đặc biệt, các cơ quan nhà nước cần phải “đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”17. Đảng và Nhà nước phải thực sự tạo điều kiện và môi trường để Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng các chủ trương, chính sách, pháp luật cởi mở, thân thiện, dễ dàng trong việc thực hiện các quyền dân chủ cơ bản của công dân. Trong đó, sớm hoàn thiện các đạo luật về các quyền làm chủ trực tiếp của công dân, như Luật về Bầu cử, Luật về Hội, Luật về quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân, Luật về Giám sát và phản biện xã hội… Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội nâng cao nhận thức, thực hiện mạnh mẽ, thực chất chức năng giám sát và phản biện xã hội, coi đó là phương tiện của những tổ chức đại diện Nhân dân để giám sát trước và sau đối với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đảng và Nhà nước thực sự coi đó là phương thức khắc phục những khiếm khuyết trong hoạt động của hệ thống chính trị nhất nguyên, bảo đảm tính hiệu quả, thiết thực trong việc mở rộng dân chủ, đi đôi với giữ vững kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa để Nhân dân thực sự là chủ nhân của đất nước. Lợi ích, sức mạnh của đất nước đồng nhất với lợi ích, sức mạnh của Nhân dân. Sứ mệnh, vai trò của Đảng, Nhà nước là bảo vệ và phục vụ Nhân dân. Quyền lực của Đảng, Nhà nước là do Nhân dân ủy thác. Đảng viên và cán bộ, công chức, viên chức là con em của Nhân dân, được Nhân dân nuôi dưỡng phải thực sự là “công bộc”, “đầy tớ” trung thành của Nhân dân.

Đồng thời, với các những giải pháp cơ bản nêu trên, cần luôn nhạy bén nhận diện những thủ đoạn mới và kiên quyết đấu tranh với các thế lực thù địch, phản động, phần tử xấu xuyên tạc, phá hoại quan hệ: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Đấu tranh với âm mưu chống phá thành quả cách mạng cùng những quan điểm “tư bản hóa” Việt Nam, xuyên tạc, chia rẽ Đảng với Nhân dân. Đồng thời, củng cố, phát triển thực chất mối quan hệ này để làm căn cứ thực tiễn xác đáng, giàu tính thuyết phục đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch. Bên cạnh đó, trong phát triển lý luận về mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” cần có quan điểm lịch sử – cụ thể, tránh tuyệt đối hoá, hiện đại hoá tư tưởng, quan điểm của các nhà kinh điển sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề này.

4. Kết luận

Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ chính là sự thể hiện rõ nhất tính đặc sắc, ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân ta đang xây dựng. Đó là sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam với Nhà nước và toàn xã hội; là sự quản lý của Nhà nước trên cơ sở thể chế hóa những chủ trương của Đảng và vai trò làm chủ của Nhân dân. Nghiên cứu sâu sắc quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thông qua đó, làm cơ sở để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát huy quyền làm chủ thực sự của Nhân dân trong giai đoạn mới hiện nay.

Chú thích:
1, 2. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1995). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 610, 484.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1995). Tập 21. H. NXB Chính trị quốc gia, tr.252 – 253.
4, 5. V.I. Lênin toàn tập (1976). Tập 33. H. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 9, 141.|
6. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1994). Tập 20. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 253.
7. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (2002). Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 202.
8, 9. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập (1995). Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 350, 123.
10. V.I.Lênin toàn tập (1979). Tập 39. H. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 251.
11. V.I.Lênin toàn tập (1979). Tập 6. H. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 158 – 159.
12. V.I.Lênin toàn tập (1979). Tập 41. H. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 479.
13. V.I.Lênin toàn tập (1979). Tập 44. H. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, tr. 426.
14, 15, 16, 17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 50, 51, 50, 51.