Trung tá, Nguyễn Văn Bách
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, đây là kim chỉ nam, là cơ sở khoa học để ngành Giáo dục và Đào tạo; các học viện, trường đại học tổ chức thực hiện; đồng thời cũng khái quát thực trạng công tác giảng dạy các môn lý luận ở các học viện, trường đại học ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp.
Từ khóa: Giáo dục và đào tạo; quán triệt quan điểm của Đảng; môn lý luận; học viện; trường đại học; Văn kiện Đại hội XIII.
1. Đặt vấn đề
Qua gần 40 năm đổi mới đất nước, sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước ta đã và đang thay đổi toàn diện theo chiều hướng giáo dục hiện đại, đáp ứng xu thế hội nhập giáo dục và đào tạo quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, sau nhiều lần cải cách, ngành Giáo dục và Đào tạo vẫn chưa thực sự tìm ra được hệ thống giải pháp đồng bộ mang tính khả thi cao để nền giáo dục và đào tạo nói chung, dạy học các môn lý luận nói riêng có bước phát triển mạnh mẽ. Vì vậy, quán triệt quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng vào công tác giảng dạy các môn lý luận hiện nay là vấn đề cấp bách cả lý luận và thực tiễn.
2. Quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người”1. Đây là nội dung nhằm hiện thực hóa mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Nội dung quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo của nước ta trong giai đoạn hiện nay, được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, đánh giá toàn diện các mâu thuẫn trong công tác giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay. Theo đó, các mâu thuẫn trong công tác giáo dục và đào tạo hiện nay được Đảng ta chỉ ra, cụ thể là:
(1) Mâu thuẫn giữa mục tiêu với mô hình giáo dục và đào tạo: xuất phát từ thực tiễn nên mục tiêu của nền giáo dục và đào tạo nước ta đặt ra là phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế thì mô hình giáo dục và đào tạo để tạo ra nguồn nhân lực này chưa đúng với mục tiêu: “Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển”2. Do vậy, sau khi tốt nghiệp ra trường, người học khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ, chưa đảm nhiệm được cương vị, chức trách được giao; nhất là nhân lực chất lượng cao còn thiếu và hạn chế về trình độ chuyên môn.
(2) Mâu thuẫn giữa việc xác định vị trí của nền giáo dục và đào tạo với các hành động cụ thể của nền giáo dục và đào tạo: với vị trí là quốc sách hàng đầu nhưng khi thực hiện, các hoạt động giáo dục và đào tạo có những mặt chưa đáp ứng được yêu cầu, “Đào tạo vẫn thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động”3; “Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa bảo đảm tính đồng bộ và liên thông giữa các trình độ, các phương thức giáo dục và đào tạo. Nội dung, chương trình giáo dục và đào tạo còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành”4. Một số nhiệm vụ đổi mới giáo dục và đào tạo triển khai còn chậm, thiếu hệ thống, chưa ổn định, hiệu quả thấp; hệ thống trường lớp phân bổ chưa hợp lý, một số nơi còn thiếu, xuống cấp. Điều này cho thấy, việc thực hiện giáo dục và đào tạo chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, chưa xác định đúng vị trí của giáo dục và đào tạo.
(3) Mâu thuẫn giữa cơ cấu, quy mô giáo dục và đào tạo với nhu cầu thực tế về nguồn nhân lực của xã hội: Đảng ta chủ trương: “Sắp xếp lại hệ thống trường học; phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền…”5. Nhưng trên thực tế, ngành giáo dục và đào tạo, các học viện, trường đại học chưa bám sát nhu cầu thực tế của từng ngành nghề, mà thường đặt lợi ích của trường mình lên cao; sự điều tiết của Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa kịp thời, nên số lượng nhân lực được đào tạo có ngành thì thiếu, có ngành lại lớn hơn nhu cầu thực tế. Đặc biệt, có ngành, nghề không tuyển được người, chưa có cơ chế đặt hàng đào tạo đối với một số ngành, lĩnh vực.
Thứ hai, chỉ ra một cách toàn diện về nội dung giáo dục và đào tạo.
Đối với mỗi con người, để tồn tại và phát triển không chỉ có năng lực mà còn phải có phẩm chất tốt để có thái độ ứng xử phù hợp với tự nhiên, xã hội và với chính con người. Phẩm chất và năng lực là hai thành phần cơ bản trong cấu trúc nhân cách nói chung và là yễu tố nền tảng tạo nên nhân cách của một con người. Người có phẩm chất tốt sẽ là cơ sở để nâng cao năng lực, khi có năng lực sẽ góp phần hoàn thiện phẩm chất hơn. Thực tế, trong suốt thời gian dài vừa qua, nền giáo dục của nước ta quá tập trung vào trang bị kiến thức cho người học ở dạng lý thuyết mà ít thực hành và chưa chú ý đến việc phát triển phẩm chất cho người học. Do vậy, những năm gần đây xảy ra nhiều hiện tượng đáng tiếc, như: bạo lực học đường, cách ứng xử của người học với người dạy, cách ứng xử của người trẻ với người lớn tuổi chưa đúng chuẩn mực đạo đức xã hội và đạo đức học đường.
Trước thực tế trên, Đại hội XIII của Đảng chủ trương tiếp tục: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học;… Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”6. Chủ trương trên chính là yêu cầu, quan điểm toàn diện về nội dung giáo dục và đào tạo, toàn diện thể hiện ở trang bị cho người học cả đức, trí, thể, mỹ; giáo dục cả kỹ năng sống, thái độ ứng xử đối với tự nhiên, xã hội và với chính con người; giáo dục cả ngoại ngữ và công nghệ để có tư duy sáng tạo, hướng đến là công dân toàn cầu làm việc hiệu quả trong môi trường quốc tế.
Thứ ba, đánh giá toàn diện các yếu tố để đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo của nước ta hiện nay.
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh:“Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện”7. Đổi mới toàn diện bắt đầu từ mục tiêu nhằm trang bị cho người học có đầy đủ phẩm chất, năng lực và thể chất để hướng đến mục tiêu là công dân toàn cầu.
Đổi mới nội dung giáo dục và đào tạo theo hướng chú trọng bảo đảm kiến thức rộng về chuyên ngành và sâu về chuyên môn, theo hướng thiết thực phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp. Dạy ngoại ngữ và tin học, công nghệ số theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của người học.
Đổi mới phương pháp theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học. Tập trung dạy cách học, cách tư duy, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực, phẩm chất và thể chất. Chuyển “từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua internet, truyền hình, các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”8.
3. Thực trạng công tác giảng dạy các môn lý luận tại các học viện, trường đại học hiện nay
Lý luận là một nội dung, một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng ta. Tại Đại hội XIII, Đảng đã chỉ ra 4 loại hình khoa học là: khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị. Các môn học lý luận là các môn học thuộc khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị. Các môn học này trang bị cho người học kiến thức cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; truyền thống và văn hóa của dân tộc; tiếp thu giá trị nhân văn và tinh hoa của nhân loại vận dụng cho phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
Thực tiễn những năm qua, có thời điểm các nhà trường chủ yếu chú trọng dạy học các môn thuộc khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ và coi nhẹ việc giảng dạy môn học lý luận Mác – Lênin. Trong đó, có việc hợp nhất 3 bộ môn của chủ nghĩa Mác thành môn học: “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin” (dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh). Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến thế giới quan và phương pháp luận của sinh viên. Điều này cho thấy, dạy học các môn lý luận cần phải đặt ngang hàng với các môn khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Các học viện, trường đại học Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc đào tạo các thế hệ sinh viên tốt nghiệp để làm chủ đất nước. Quá trình dạy học ở các học viện, trường đại học bao gồm có các chủ thể là người dạy (giảng viên), người học (sinh viên), người quản lý (cơ quan, khoa, bộ môn). Trong đó, cốt lõi là đội ngũ giảng viên trực tiếp giảng dạy ở các học viện, trường đại học. Do vậy, giảng viên giảng dạy các môn lý luận có vai trò quan trọng, trực tiếp góp phần đào tạo thế hệ sinh viên khi tốt nghiệp có phẩm chất, năng lực và thể chất để làm chủ đất nước trong tương lai.
Đội ngũ giảng viên dạy các môn lý luận là đội ngũ trí thức của đất nước; là một bộ phận cấu thành đội ngũ cán bộ của Đảng; đảm nhiệm công tác giảng dạy và nghiên cứu các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị; là lực lượng nòng cốt có vai trò quan trọng trong bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và kiến thức khoa học xã hội và nhân văn, kiến thức khoa học chính trị. Giảng viên dạy các môn lý luận chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong các học viện, trường đại học.
Đối với các trường đào tạo chuyên ngành khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, tỷ lệ này là khoảng 1/3; đối với các trường đào tạo các chuyên ngành khoa học lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn, tỷ lệ này khoảng 2/3. Đây chính là lực lượng quyết định đến chất lượng dạy học các môn lý luận ở các học viện, trường đại học trong giai đoạn hiện nay. Đội ngũ giảng viên dạy học các môn lý luận ở các học viện, trường đại học luôn tích cực đổi mới phương pháp, nội dung, chương trình và kiểm tra đánh giá người học trong quá trình dạy học; bước đầu đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục – đào tạo. Trong quá trình hoạt động giảng dạy, giảng viên chú trọng, tích cực nghiên cứu khoa học các môn lý luận để bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tìm ra tri thức khoa học lý luận mới theo kịp sự vận động của thực tiễn ở nước ta và thế giới. Qua đó, thể hiện rõ việc dạy học các môn lý luận là hoạt động tích cực đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta.
Tuy nhiên, hiệu quả quá trình dạy học một số môn lý luận chưa cao, một số môn lý luận chưa thu hút được sự quan tâm của người học. Số đông sinh viên theo học các ngành thuộc khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ còn coi nhẹ các môn lý luận.
Công tác giáo dục chưa tạo ra được sự hào hứng cho sinh viên theo học các chuyên ngành của khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị, dẫn đến, tình trạng sinh viên hiểu chưa đúng và vận dụng lý luận được trang bị vào hoạt động thực tiễn, có nhận thức còn sai hoặc vận dụng một cách máy móc, thiếu sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ và trong các hoạt động của đời sống.
4. Quán triệt quan điểm toàn diện về giáo dục và đào tạo trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng vào công tác giảng dạy các môn lý luận
Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị đang ra sức chống phá Đảng và Nhà nước ta trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Vì vậy, quá trình dạy học các môn lý luận ở các học viện, trường đại học Việt Nam cần quán triệt, vận dụng quan điểm toàn diện của Đảng để góp phần xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, kiên định, sáng suốt trước những âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch, cụ thể như sau:
Một là, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ giảng viên giảng dạy các môn lý luận.
Đội ngũ giảng viên cần phải luôn tự nâng cao trình độ chuyên môn, có hiểu biết rộng về khoa học tự nhiên, khoa học – công nghệ, nhất là khoa học lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn; hiểu biết sâu sắc về chuyên ngành tham gia giảng dạy; luôn trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống, phương pháp, tác phong sư phạm. Đặc biệt, giảng viên dạy các môn lý luận cần thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm biện chứng mácxít trong quá trình giảng dạy các môn chuyên ngành đảm nhiệm, không tách rời, không biệt lập với tri thức của các môn khoa học khác và tri thức của nhân loại. Ngoài ra, trong giảng dạy cần có sự kế thừa những di sản và giá trị tri thức khoa học của nhân loại. Quá trình tiếp thu, kế thừa những tri thức khoa học trong dòng chảy chung của nhân loại cần “Việt Nam hóa”, vận dụng phù hợp với văn hóa, con người và thực tiễn Việt Nam.
Giảng viên dạy học các môn lý luận cần luôn bám sát thực tiễn, nắm được thực tiễn phát triển của đất nước, sự vận động của khu vực và thế giới; bám sát đối tượng người học để chuẩn bị và tiến hành giảng dạy các môn lý luận sao cho vừa phù hợp với mục tiêu chung mà Đảng, Nhà nước đã đề ra, vừa phù hợp với mục tiêu của từng trường. Trong quá trình dạy học, giảng viên cần xác định rõ mục tiêu dạy học các môn lý luận cho từng đối tượng, để đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức, cách đánh giá người học. Hướng đến coi trọng việc phát triển tư duy, bồi dưỡng năng lực tự học và cao hơn là năng lực tự nghiên cứu của người học; phát huy năng lực tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, bám sát thực tiễn của đội ngũ giảng viên. Vì vậy, khi giảng bài, giảng viên cần thực hành giảng dạy theo chuyên đề, chú trọng và đẩy mạnh, tăng cường các hoạt động sau bài giảng; vận dụng kiến thức thu được trong các hoạt động khảo sát, thực tế và nghiên cứu khoa học để quá trình giảng dạy được linh hoạt, có sự tương tác nhằm thu hút người học tham gia.
Hai là, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người học đối với các môn lý luận.
Người học các môn lý luận là trung tâm của quá trình dạy học các môn lý luận, vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của dạy học. Do vậy, người học cần xác định rõ mâu thuẫn căn bản trong quá trình học các môn lý luận, đó là: yêu cầu ngày càng cao về khối lượng tri thức cần tiếp thu và khả năng tiếp thu có hạn của người học trong quá trình đào tạo.
Quá trình người học được học các môn lý luận được tích lũy dần về lượng (tức kiến thức được trang bị và tự học) sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất khi học xong các môn lý luận (thể hiện ở khả năng nhận định, đánh giá và ứng xử với các tình huống trong thực tiễn). Chương trình học có thể được thiết kế 1 – 2 tín chỉ… và nội dung các môn học lý luận cũng tích hợp nhiều chuyên ngành trong một môn; có thể kéo dài hàng trăm tín chỉ, học từng chuyên ngành riêng biệt như đối với đối tượng chuyên khoa học lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn.
Quá trình dạy học các môn lý luận, giảng viên không đủ điều kiện thời gian để trang bị toàn bộ tri thức liên quan đến chuyên ngành cho người học mà chỉ trang bị kiến thức cơ bản thông qua từng chuyên đề cụ thể, gắn với định hướng nghiên cứu các loại tài liệu liên quan đến chuyên đề. Giảng viên trang bị phương pháp học, nghiên cứu từng chuyên ngành thông qua môn học phương pháp bộ môn và các chuyên đề đầu tiên của môn học và định hướng cho người học nhận thức và hình thành thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật để học và nghiên cứu các ngành khoa học khác; có khả năng nghiên cứu khoa học tìm ra tri thức mới cho nhân loại.
Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng, khoa, bộ môn trong nâng cao chất lượng dạy học các môn lý luận.
Các cơ quan chức năng, khoa, bộ môn trong các học viện, trường đại học chính là nơi cụ thể hóa mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp dạy học; giúp đảng ủy, ban giám đốc (ban giám hiệu) thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đây là công việc liên quan đến tất cả các chủ thể, các lực lượng có liên quan tới quá trình giáo dục và đào tạo ở các học viện, trường đại học, trong đó các cơ quan chức năng, khoa, bộ môn là lực lượng nòng cốt. Quá trình thực hiện các cơ quan chức năng, khoa, bộ môn cần chú trọng đến lực lượng chuyên môn, đặc biệt là ý kiến của người giảng dạy; đồng thời, cần xác định đổi mới đồng bộ cả người dạy lẫn người học để đạt được mục đích đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Ngoài ra, các cơ quan chức năng, khoa, bộ môn cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thực tế để đưa người dạy và người học tham gia nghiên cứu ở các địa phương, lĩnh vực nghiên cứu, học tập nhằm tăng cường cho người dạy và người học có điều kiện gắn lý luận với thực tiễn. Trải nghiệm thực tế giúp cho chủ thể khi tham gia quá trình dạy học sẽ sinh động, không nhàm chán, không chỉ thuần túy về lý luận. Đội ngũ giảng viên cần làm tốt công tác nghiên cứu trao đổi trong dạy học các môn lý luận để giải quyết tốt những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá trình dạy các môn lý luận. Thực hiện lộ trình đổi mới đồng bộ, toàn diện, triệt để trong quá trình dạy học. Thường xuyên đánh giá tác động của các thay đổi, giải pháp đổi mới trong dạy học các môn lý luận để chỉnh sửa cho hợp lý.
5. Kết luận
Những vấn đề trong quá trình quán triệt quan điểm toàn diện trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về công tác giáo dục và đào tạo vào dạy học các môn lý luận ở các học viện, trường đại học hiện nay là một thể thống nhất không tách rời. Quá trình thực hiện tùy theo điều kiện cụ thể của từng học viện, từng trường đại học, từng đối tượng học các môn lý luận cụ thể để vận dụng cho phù hợp. Quán triệt và vận dụng quan điểm toàn diện trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về công tác giáo dục và đào tạo vào dạy học các môn lý luận ở các học viện, trường đại học hiện nay chính là trực tiếp góp phần đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống.
Chú thích:
1, 3, 4, 5, 6, 7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 136, 82, 82, 233, 232 – 233, 136, 232.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 70.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
2. Vũ Thanh Bình (2012). Vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay. Luận án tiến sĩ Triết học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Lê Thanh Phong (2021). Nâng cao năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay. Luận án tiến sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị.
4. Lê Thị Hồng Hạnh (2024). Phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng tại Trường Đại học Điện lực. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/06/27/phat-huy-vai-tro-cua-doi-ngu-giang-vien-trong-bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang-tai-truong-dai-hoc-dien-luc/
5. Lê Thạc Diên (2024). Nâng cao năng lực số cho giảng viên Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong đáp ứng hội nhập quốc tế. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/07/18/nang-cao-nang-luc-so-cho-giang-vien-truong-dao-tao-can-bo-le-hong-phong-apung-hoi-nhap-quoc-te/