Những nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

ThS. Nguyễn Thế Vinh
Trường Đại học Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương

(Quanlynhanuoc.vn) – Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua tác phẩm: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là sự kế thừa, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước. Những quan điểm, tư tưởng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam rất sâu sắc, toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, thể hiện một đường hướng chính trị nhất quán về sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Từ khoá: Nhận thức lý luận, chủ nghĩa xã hội, Việt Nam, tác phẩm, Nguyễn Phú Trọng.

1. Đặt vấn đề

Là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung thành và vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện lịch sử, cụ thể cách mạng Việt Nam, trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nghiên cứu, luận giải làm rõ hơn những vấn đề rất cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá, xã hội, con người, quốc phòng, an ninh… Những quan điểm, tư tưởng của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có giá trị lý luận, thực tiễn quan trọng để định hướng, khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2. Nhận thức lý luận cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua tác phẩm của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học”1. Là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lý luận sắc bén của Đảng, với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú ở nhiều cương vị khác nhau, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiếp cận chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin. Với cách lập luận chặt chẽ, lô gích có tình, có lý, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta quyết tâm đi theo con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn.

Nhân dân ta đã trải qua những năm tháng đấu tranh gian khổ, thấu hiểu đau thương, mất mát của một dân tộc không có độc lập, tự do và sự đè nén áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, phong kiến. Khát vọng giải phóng dân tộc, con người được tự do, hạnh phúc là ước nguyện cháy bỏng của Nhân dân ta. Khi Đảng ra đời và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã quy tụ, tập hợp được sức mạnh to lớn của các giai cấp, giai tầng trong xã hội. Cố Tổng Bí thư đã khẳng định: “Nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ, hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của Nhân dân với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”2. Vì thế, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là cơ sở, nguồn gốc, động lực quan trọng để đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân được sung sướng, ấm no, là không ngừng nâng cao mức sống của Nhân dân, là phải hết sức chăm lo đến đời sống của Nhân dân, chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh.

Để khẳng định tính đúng đắn về sự lựa chọn chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chứng minh, luận giải ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, con người, đối ngoại và quốc phòng, an ninh.

Trước hết, nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng đầy đủ, toàn diện thể hiện ở việc Đảng ta từng bước hoàn thiện những cơ chế, chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quan tâm, chăm lo tốt hơn đến các tầng lớp nhân dân. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản như trước đây, như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt… đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất là nước pháp quyền với nhà nước tư sản”3.

Thứ hai, về kinh tế, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước để hướng tới thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”4; đó là sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế…

Thứ ba, về văn hoá, đồng chí cho rằng, văn hoá là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh bên trong, yếu tố quan trọng bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước. Cố Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Hạnh phúc của con người không phải chỉ ở chỗ nhiều tiền, lắm của, ăn ngon, mặc đẹp, mà còn ở sự phong phú về tâm hồn, được sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ phải và công bằng”5.

Thứ tư, về xã hội cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh đến việc xây dựng một xã hội nhân văn, nhân đạo, tất cả vì lợi ích của Nhân dân. Mọi quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước hướng đến việc chăm lo tốt nhất đến đời sống của các tầng lớp Nhân dân; bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân. Đồng chí nhấn mạnh: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”6.

Thứ năm, về con người, cố Tổng Bí thư đặc biệt nhấn mạnh đến con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của lịch sử, con người là vốn quý, không có con người thì không thể làm được bất kỳ việc gì. Tuy nhiên, con người ở đây phải là những con người có phẩm chất, năng lực, “đức”, “tài”, suốt đời phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng cao cả của Đảng, phụng sự Tổ quốc, phụng vụ Nhân dân “mình vì mọi người”, “mọi người vì mình”.

Thứ sáu, về quốc phòng, an ninh, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh đến việc giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, xây dựng phương án, kế hoạch chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới để không bị động, bất ngờ, xây dựng Quân đội và Công an tinh, gọn, mạnh, tiến thẳng lên hiện đại, là công cụ bạo lực sắc bén trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ bảy, về đối ngoại, cố Tổng Bí thư nhấn mạnh đến đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mang đậm bản sắc cây tre Việt Nam, gốc vững, thân chắc cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam. Trong quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng phải luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết, khơi dậy ý chí, khát vọng và tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc của Nhân dân trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài.

Sau gần 40 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế tăng trưởng nhanh và duy trì ở mức ổn định, các nhà đầu tư nước ngoài có nhiều chương trình, dự án, hợp tác phát triển với Việt Nam; đời sống của Nhân dân ngày càng được nâng cao, khoảng cách chênh lệch giàu, nghèo giữa vùng, địa phương dần thu hẹp; hệ thống điện, đường, trường, trạm, y tế, văn hoá, giáo dục đáp ứng tốt nhu cầu của Nhân dân, người dân được hưởng dịch vụ chất lượng cao ngày càng tăng, quốc phòng, an ninh được củng cố, giữ vững và tăng cường.

Hoạt động đối ngoại được mở rộng, hiện nay nước ta có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia trên thế giới, có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các thành viên Thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, các nước lớn, là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Việt Nam hiện lọt vào Top 40 nền kinh tế hàng đầu, có quy mô thương mại trong Top 20 quốc gia trên thế giới, mắt xích quan trọng trong 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) gắn kết với 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu7. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới… Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay”8.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đã đạt được, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đó là: sức cạnh trạnh, chịu đựng của nền kinh tế nước ta còn thấp, chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của thị trường; sự cạnh tranh khốc liệt ở thị trường thế giới, khiến một số doanh nghiệp vừa và nhỏ không chịu được buộc phải tuyên bố phá sản, giải thể; đời sống của một bộ phận quần chúng nhân dân, người lao động, công nhân còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, bấp bênh, khoảng cách chênh lệch giàu, nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi chưa được rút ngắn; nhiều vấn nạn xã hội còn xảy ra nhất là với lứa tuổi vị thành viên; tình trạng tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, quan liêu, hách dịch, chủ nghĩa cá nhân ở một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn diễn biến phức tạp, có mặt còn gay gắt hơn.

Các thế lực thù địch vẫn ra sức chống phá Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta với âm mưu, thủ đoạn ngày càng nham hiểu, thâm độc, tinh vi và sảo quyệt với chiến lược “diễn biến hoà bình” để chống phá ta từ trong nội bộ. Từ những khó khăn, hạn chế đó, cố Tổng Bí thư đã chỉ ra rằng: “Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội9.

3. Tiếp tục kiên định chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua tác phẩm của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng       

Trong những năm tới, tình hình thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng quyết liệt, thế giới đang hình thành một trật tự thế giới “đa cực, đa trung tâm” ngày càng rõ nét và chi phối mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế hiện nay. Các nước nhỏ và vừa chịu sức ép “chọn bên” trong quan hệ quốc tế; nguy cơ xuất hiện các cuộc chiến tranh, xung đột cục bộ, chạy đua vũ trang đã hiện hữu đậm nét.

Thế giới đang đứng trước nhiều thách thức mới của an ninh truyền thống, phi truyền thống, các hình thái chiến tranh mới, an ninh mạng… trong bối cảnh đó, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhất quán quan điểm “tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại”10.

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Cố Tổng Bí thư đã khẳng định: “sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”11. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; giữ vững các nguyên tắc trong xây dựng Đảng; gắn bó máu thịt với Nhân dân; thường xuyên tự chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.

Hai là, đẩy mạnh phát triển kinh tế, quan tâm, chăm lo đời sống của các tầng lớp Nhân dân.

Kinh tế là nhân tố đặc biệt quan trọng quyết định đến sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, vì vậy, chủ nghĩa xã hội muốn thắng được chủ nghĩa tư bản tạo ra năng xuất lao động cao hơn, nhiều hơn và chất lượng hơn. Chính vì vậy, cố Tổng Bí thư yêu cầu: tiếp tục đẩy mạnh mô hình tăng trưởng kinh tế, chú trọng ngành kinh tế mũi nhọn, then chốt, tăng cường quản lý nhà nước đối với các ngành kinh tế; phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo hướng hiện đại, văn minh, chú trọng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế, gắn với bảo vệ môi trường.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức quốc tế vào thực hiện các chương trình, dự án, kế hoạch phát triển hạ tầng giao thông, khu công công nghiệp, khu chế xuất; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nguồn nhân lực phục vụ cho lãnh đạo, quản lý, điều hành quản lý sản xuất; giải quyết tốt mối quan hệ giữa chủ động hội nhập quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, không chạy theo kinh tế để đánh đổ bằng môi trường, sự thiếu hụt về nguồn lao động, ảnh hưởng đến đời sống của người dân và thế hệ mai sau; mỗi một cơ chế, chính sách phát triển kinh tế phải chú trọng đến quyền và lợi ích của người dân, doanh nghiệp, phát triển công nghiệp xanh, nông nghiệp xanh, ngành dịch vụ chất lượng cao, đáp ứng với nhu cầu, mong muốn không chỉ đối với người dân Việt Nam mà còn đối với nước ngoài.

Ba là, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Cố Tổng Bí thư đã nhấn mạnh: “Phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, môi trường văn hoá, đời sống văn hoá: bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, tiếp thu văn hoá nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hoá”12. Theo đó, phải không ngừng giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc vào từng lĩnh vực, ngành nghề cụ thể, thấm đẫm giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc, văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi; là nguồn lực tiềm tàng bên trong tạo thành sức mạnh tổng hợp trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Gắn phát triển kinh tế với văn hoá, khơi dậy các nguồn lực tự nhiên, nguồn lực nhân văn theo hướng bền vững, phục vụ cho người dân trong nước và du khách quốc tế. Mỗi một chủ trương, biện pháp phát triển văn hoá hướng đến coi người làm trọng tâm chủ yếu, đề cao nhu cầu hưởng thụ văn hoá của con người.

Bốn là, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.

Đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi”13. Trong quá trình hội nhập quốc tế phải luôn quán triệt sâu sắc tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, nền ngoại giao “cây tre Việt Nam” theo quan điểm của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết; xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại giao bản lĩnh, kiên định, có năng lực, phẩm chất, thật sự là “sứ giả” hòa bình của con người Việt Nam trên trường quốc tế; đối ngoại phải phục vụ hữu ích sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, khai thông các nguồn lực, tạo môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ xuyên suốt là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

4. Kết luận

Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài khó cần phải tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung, phát triển, hoàn thiện lý luận nhận thức. Trong quá trình đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất về nhận thức, hành động theo tinh thần “Nhất hô bá ứng”, “Tiền hô hậu ủng”, “Dọc ngang thông suốt”, “trên dưới đồng lòng” để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định. Với sự tâm huyết, trách nhiệm cao trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân, suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; nhiều quan điểm, tư tưởng của đồng chí đã trở thành lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, mang tính ưu việt chủ nghĩa xã hội. Đồng chí khẳng định: “với hướng đi đúng đắn, hợp quy luật; ý Đảng hợp với lòng Dân… toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nhất định sẽ lập nên những kỳ tích phát triển mới, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước nguyện của toàn dân tộc”14.

Chú thích:
1, 2, 3, 4, 6, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 17, 22, 23-24, 25-26, 21, 34, 36, 34, 29, 171, 37, 65-66.
5. Nguyễn Phú Trọng (2024). Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 31.
7. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chủ trì Chương trình kỷ niệm 79 năm Quốc khánh 2/9. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/08/30/tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-chu-tri-chuong-trinh-ky-niem-79-nam-quoc-khanh-2-9.