Phạm Đức Hiếu
Tổng Công ty cổ phần bảo hiểm Quân đội
(Quanlynhanuoc.vn) – Dịch vụ công được hiểu là những dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của người dân và cộng đồng, bảo đảm ổn định và công bằng xã hội, do Nhà nước chịu trách nhiệm, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận1. Dịch vụ công không chỉ là những hoạt động cơ bản nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người dân, mà còn là nền tảng vững chắc để xây dựng một xã hội công bằng, minh bạch và phát triển toàn diện. Một hệ thống dịch vụ công mạnh mẽ và linh hoạt cũng góp phần quan trọng trong việc xây dựng lòng tin của Nhân dân vào chính phủ, qua đó tạo ra một xã hội ổn định và phát triển. Vì vậy, việc đầu tư và cải thiện dịch vụ công không chỉ là trách nhiệm mà còn là chiến lược thông minh để bảo đảm sự phát triển thịnh vượng lâu dài cho đất nước.
Từ khóa: Dịch vụ công, quản lý nhà nước, cung ứng dịch vụ công.
1. Thực trạng quy định và thực hiện cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam
Tại Việt Nam, việc cung cấp dịch vụ công được coi là nhiệm vụ chủ yếu và cốt lõi của Nhà nước nhằm mục tiêu xây dựng một quốc gia vững mạnh, thịnh vượng và mang lại hạnh phúc cho người dân. Dịch vụ công rất đa dạng và phủ rộng trên nhiều lĩnh vực. Dựa vào đặc điểm phục vụ, có thể phân loại thành ba nhóm chính:
Dịch vụ hành chính công: Dịch vụ hành chính công là loại dịch công vụ gắn liền với chức năng quản lý nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân. Dịch vụ này do các cơ quan hành chính nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền thực hiện để phục vụ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân. Hay nói cách khác, dịch vụ hành chính công là hoạt động thực thi pháp luật nhằm phục vụ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân do các cơ quan hành chính nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật2. Các dịch vụ này bao gồm việc cấp các giấy tờ, như: giấy phép, chứng nhận, đăng ký, công chứng, các thủ tục liên quan đến hộ tịch, hộ khẩu… nhằm bảo đảm quyền lợi cơ bản của công dân.
Dịch vụ sự nghiệp công: Dịch vụ sự nghiệp công là một loại hình của dịch vụ công (cùng với dịch vụ hành chính công và dịch vụ công ích) được phân chia dựa trên tính chất và tác dụng của dịch vụ được cung ứng. Dịch vụ sự nghiệp công bao gồm các hoạt động cung ứng những dịch vụ mang tính chất phúc lợi xã hội thiết yếu cơ bản cho người dân, như: giáo dục, văn hóa, khoa học, y tế, thể dục – thể thao, bảo hiểm, an sinh xã hội…3. Phần lớn dịch vụ này do các cơ quan, tổ chức nhà nước cung cấp hoặc được xã hội hóa một phần. Hiện nay, xu hướng xã hội hóa đang được thúc đẩy mạnh mẽ trong các lĩnh vực như giáo dục, y tế, văn hóa, nghiên cứu khoa học… nhằm đáp ứng nhu cầu về giáo dục, chăm sóc sức khỏe, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho người dân và góp phần vào sự phát triển của xã hội.
Dịch vụ công ích: Dịch vụ công ích là dịch vụ mà việc sản xuất, cung ứng dịch vụ này theo cơ chế thị trường khó có khả năng bù đắp chi phí hoặc dịch vụ có tính chất đặc thù; được Nhà nước trợ giá phần chênh lệch giữa giá tiêu thụ, giá sản phẩm dịch vụ theo quy định của Nhà nước hoặc phần chênh lệch giữa số tiền do người được hưởng sản phẩm, dịch vụ công ích thanh toán theo quy định của Nhà nước với chi phí hợp lý của nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích để sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích do Nhà nước đặt hàng (hoặc giao nhiệm vụ theo quy định của pháp luật chuyên ngành nếu có)4. Đây là các dịch vụ nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đồng, bao gồm cung cấp điện, nước sinh hoạt, duy trì hệ thống giao thông, dịch vụ bưu điện, vệ sinh môi trường, bảo đảm an ninh trật tự… Đa số các dịch vụ này được quản lý và cung cấp bởi các tổ chức nhà nước và doanh nghiệp nhà nước.
a. Về cung ứng dịch vụ hành chính công
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã đặc biệt chú trọng vào việc cải tiến và tăng cường chất lượng các dịch vụ hành chính công, coi đây là một phần không thể thiếu trong quá trình cải cách hành chính theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại. Điều này được thể hiện thông qua việc tập trung đổi mới đồng bộ tất cả các yếu tố của nền hành chính như hệ thống thể chế, thủ tục, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Hệ thống chính sách của Chính phủ trong lĩnh vực dịch vụ hành chính công nói chung cũng ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và phù hợp với khả năng của nền kinh tế.
Công nghệ thông tin và kỹ thuật số cũng đã được triển khai rộng rãi để cải thiện chất lượng dịch vụ hành chính, giúp cung cấp thông tin về quy định, tổ chức, thủ tục đấu thầu, đăng ký doanh nghiệp, cấp phép đầu tư, tư vấn pháp luật, đăng ký xe và nhiều dịch vụ khác… Người dân và doanh nghiệp giờ đây có thể tiếp cận các dịch vụ do nhà nước cung ứng một cách thuận tiện hơn, như: đăng ký doanh nghiệp, làm thủ tục hộ tịch, hộ khẩu hay tìm hiểu thông tin pháp luật.
Những năm gần đây, Việt Nam đã nỗ lực triển khai và mở rộng dịch vụ công trực tuyến đến với các tổ chức và cá nhân thông qua internet. Những số liệu ban đầu đã phản ánh sự tăng trưởng tích cực như: tỷ lệ hồ sơ được gửi online thông qua Cổng dịch vụ công quốc gia liên tục tăng cao, từ 12,38% trong năm 2021 lên đến 35,53% vào năm 20225. Hệ thống dịch vụ hành chính công trực tuyến cũng được xây dựng và công khai đa dạng trên hệ thống cổng thông tin điện tử của các tỉnh, thành phố nên đã mang lại lợi ích tốt hơn cho cộng đồng. Một số tỉnh, thành phố đã xây dựng Trang thông tin dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và mức độ 4. Sự tham gia rộng rãi của xã hội trong việc cung cấp dịch vụ công đã tạo nên một môi trường cạnh tranh lành mạnh, phá bỏ sự độc quyền, thu hút nguồn lực từ cộng đồng và nâng cao vai trò của các đối tác xã hội trong việc quản lý nhà nước. Điều này đã góp phần tăng cường nguồn lực để đáp ứng nhu cầu xã hội về dịch vụ hành chính, đồng thời đại diện và bảo vệ quyền lợi của người dân theo đúng chính sách Nhà nước.
Bên cạnh những kết quả tích cực trên, hoạt động cung ứng dịch vụ hành chính công ở Việt Nam cũng còn những hạn chế, bất cập nhất định, cụ thể: mặc dù có sự tăng trưởng ấn tượng song tỷ lệ hồ sơ nộp online vẫn còn khiêm tốn. Sự tham gia của người dân vào việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến vẫn chưa đạt mức mong đợi. Một bộ phận không nhỏ người dân vẫn chưa thực sự quen thuộc hoặc không biết đến dịch vụ này, do đó họ vẫn thường xuyên đến nộp hồ sơ trực tiếp tại các cơ quan nhà nước.
Nhiều bộ, ngành chưa ban hành được quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công theo ngành, lĩnh vực, danh mục dịch vụ sự nghiệp có sử dụng ngân sách nhà nước và định mức kinh tế – kỹ thuật áp dụng trong các lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công do Nhà nước quản lý. Chưa ban hành đầy đủ các tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, cơ chế giám sát, đánh giá, kiểm định chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công6.
Quá trình giải quyết hồ sơ dịch vụ công qua mạng vẫn tồn tại một số vấn đề chưa được khắc phục. Trong năm 2022, tỷ lệ hồ sơ được giải quyết chậm tiến độ vẫn duy trì ở mức cao, với 29,71% vào tháng 1 và 30,81% vào tháng 12. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng chậm trễ này là do việc lãnh đạo và chỉ đạo cải cách hành chính ở một số nơi chưa đủ mạnh mẽ; đồng thời, có một số công chức, viên chức chưa tuân thủ nghiêm ngặt trong việc thực hiện các thủ tục hành chính, chưa cập nhật phương pháp làm việc, chưa tích cực và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được giao, cũng như thiếu sự chủ động trong việc đề xuất các giải pháp để giải quyết công việc7.
Người dân vẫn còn gặp nhiều rắc rối, phiền hà trong một số lĩnh vực như cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà, đất, cho thuê đất, cấp phép xây dựng nhà, công chứng, hộ khẩu… Người dân và doanh nghiệp vẫn bị coi là “nạn nhân” của tình trạng phiền nhiễu, bất hợp lý, chậm trễ, thiếu hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính các cấp. Một số nơi còn xảy ra tình trạng thương mại hóa các loại dịch vụ hành chính công do Nhà nước đảm trách. Một yếu tố cơ bản khác làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng cung ứng dịch vụ công của Chính phủ là đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn và kỹ năng hành chính8.
b. Về cung ứng dịch vụ sự nghiệp công
Qua gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã dần chuyển đổi mô hình quản lý và phát triển dịch vụ sự nghiệp công từ một hệ thống độc quyền của nhà nước sang một cấu trúc đa dạng hóa các nhà đầu tư, cơ chế thanh toán, tổ chức cung cấp và quản lý dịch vụ. Các chủ trương của Đảng về cải cách quản lý và phát triển dịch vụ sự nghiệp công đã được cụ thể hóa thông qua nhiều luật, pháp lệnh của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ và mang lại những thành tựu đáng kể trên thực tế. Các đơn vị sự nghiệp công lập đã dần được trao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về cơ cấu tổ chức, biên chế và tiền lương. Ngoài ra, việc mở rộng cơ hội cho khu vực tư nhân đầu tư vào phát triển các dịch vụ giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, văn hóa nghệ thuật và thể dục, thể thao cũng được khuyến khích. Các mô hình hợp tác công tư (PPP) đã được triển khai, chủ yếu tập trung vào việc xây dựng, chuyển giao và quản lý cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho các đơn vị sự nghiệp công, mở ra hướng đi mới cho sự phát triển của các dịch vụ sự nghiệp công.
Theo kết quả Tổng điều tra kinh tế năm 2021, đối với hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập năm 2020, ngành Giáo dục và đào tạo có đóng góp giá trị tăng thêm lớn nhất trong tổng giá trị tăng thêm của các đơn vị sự nghiệp công lập, đạt 254519,6 tỷ đồng (chiếm 53,5% trong tổng giá trị tăng thêm của hoạt động sự nghiệp công lập). Ngành Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội có giá trị tăng thêm đạt 154.514,8 tỷ đồng (chiếm 32,5% so với tổng giá trị tăng thêm của các đơn vị sự nghiệp công lập) và xếp thứ 2 trong đóng góp về giá trị tăng thêm. Giá trị tăng thêm chuyên môn khoa học và công nghệ đạt 24902 tỷ đồng, chiếm 5,2% so với tổng giá trị tăng thêm của các đơn vị sự nghiệp. Giá trị tăng thêm ngành Thông tin và truyền thông đạt 12.843 tỷ đồng, chiếm 2,7% so với tổng giá trị tăng thêm của các đơn vị sự nghiệp…9.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, song việc quản lý và phát triển dịch vụ sự nghiệp công vẫn còn những hạn chế và bất cập, đặc biệt là trong quá trình thực hiện cam kết mở cửa thị trường cho các dịch vụ công (bao gồm 11 nhóm dịch vụ). Các tổ chức nước ngoài đã được chấp nhận tham gia vào thị trường Việt Nam, song nhìn chung hệ thống quy phạm pháp luật về thị trường (giá, chất lượng) chưa có sự đồng bộ với tổ chức trong nước (cả công và ngoài công lập). Thực tiễn cho thấy, trong các lĩnh vực, như: giáo dục, y tế, văn hóa, các dịch vụ sự nghiệp công đang áp dụng nhiều mức giá khác nhau, từ giá do nhà nước đặt ra đến giá do nhà cung cấp tự quyết định.
Hệ thống pháp luật liên quan đến thị trường dịch vụ sự nghiệp công hiện nay vẫn còn có sự phân biệt giữa các đơn vị công lập và ngoài công lập, chưa tạo ra sự công bằng giữa các hình thức cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Chẳng hạn, Luật Ngân sách nhà nước chỉ đề cập đến các đơn vị sự nghiệp công lập mà không đề cập đến các đơn vị ngoài công lập; Luật Giá cho phép các dịch vụ ngoài công lập tự quyết định giá cả; Luật Khám bệnh, chữa bệnh cho phép các cơ sở y tế tư nhân tự quyết định giá dịch vụ và yêu cầu niêm yết công khai; Luật Viên chức chỉ quy định đối tượng là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật) chưa bao gồm hợp đồng không qua tuyển dụng làm việc theo Bộ luật Lao động, lao động làm việc tại tổ chức ngoài công lập tham gia cung ứng dịch vụ sự nghiệp công…10.
Trong quá trình thực hiện xã hội hóa một số dịch vụ sự nghiệp công, sự quản lý của Nhà nước vẫn còn nhiều bất cập. Ở một số nơi, việc xã hội hóa còn được đồng nhất với tư nhân hóa mà không nhận ra rằng các dịch vụ công không hoàn toàn tuân theo cơ chế thị trường. Vai trò và trách nhiệm của Nhà nước trong từng khâu quản lý và phát triển dịch vụ sự nghiệp công chưa được làm rõ. Việc chọn lựa lĩnh vực để xã hội hóa chưa thực sự phù hợp với nhu cầu thực tiễn, khiến cho một số dịch vụ cần sự tổ chức từ phía Nhà nước lại bị phó mặc cho thị trường, trong khi những lĩnh vực cần được xã hội hóa lại do các đơn vị sự nghiệp công lập quản lý một cách cồng kềnh và không hiệu quả.
c. Về cung ứng dịch vụ công ích
Sau gần 2 thập kỷ năm thực hiện chính sách xã hội hóa (kể từ khi thực hiện Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao), công tác xã hội hóa trên các lĩnh vực đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.
Nghị định số 130/2013/NĐ-CP về sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích ra đời đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân cạnh tranh nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công. Việc chuyển từ cơ chế đặt hàng sang đấu thầu là bước tiến quan trọng để xóa thế độc tôn của doanh nghiệp Nhà nước, đưa loại hình dịch vụ này ra thị trường, minh bạch hóa nguồn vốn, nâng cao chất lượng dịch vụ công ích.
Xã hội hóa dịch vụ công ích mang đến “lợi ích kép” cho cả khu vực nhà nước và khu vực tư nhân. Nhiều nhà cung ứng dịch vụ sẽ tạo ra sự cạnh tranh nên dịch vụ cung cấp được rẻ hơn, tốt hơn cho người dân, mặt khác, bộ máy Nhà nước cũng trở nên gọn nhẹ và tiết kiệm hơn. Hoạt động đấu thầu dịch vụ công ích nhằm tạo ra cơ chế minh bạch dòng tiền đầu tư, tạo cơ hội để các doanh nghiệp tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ, phòng chống tiêu cực.
Tuy nhiên, trên thực tế, các quy định chưa rõ ràng về điều kiện chỉ định thầu dịch vụ công ích vừa là rào cản, đồng thời cũng là lỗ hổng dẫn tới hiệu quả dịch vụ công ích không được như mong đợi. Có tới hàng trăm sai phạm được phát hiện tại nhiều tỉnh thành trên cả nước; nhiều tỷ đồng ngân sách vẫn cứ thất thoát bởi các chủ đầu tư dùng nhiều chiêu trò lách luật, gian lận, áp những bài thầu có lợi cho “sân sau”11. Đã có rất nhiều thủ đoạn móc ngoặc, bắt tay giữa chủ đầu tư với đơn vị tham gia đấu thầu dịch vụ công ích thời gian qua ở các địa phương đã gây thất thoát nguồn ngân sách rất lớn.
Theo các chuyên gia, việc hoàn thiện các quy chế, quy định về pháp luật đấu thầu cần được thực hiện sớm, đặc biệt cần xây dựng quy chế rõ ràng trách nhiệm của từng cá nhân, từng cơ quan chức năng giám sát khâu nào, trách nhiệm tới đâu trong hoạt động đấu thầu… Có như thế mới hạn chế được các sai phạm trong hoạt động đấu thầu nói chung và đấu thầu dịch vụ công/công ích nói riêng.
2. Một số biện pháp cải thiện và nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công tại Việt Nam
Một là, tiếp tục hoàn hiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về cung ứng dịch vụ công.
Những năm qua, các quy định về chính sách, pháp luật về dịch vụ công ngày càng được hoàn thiện. Cùng với việc ban hành các đạo luật chuyên ngành, như: Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề, Luật Bảo vệ môi trường, Luật An toàn thực phẩm… Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành theo thẩm quyền nhiều văn bản quy phạm pháp luật, như: Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước; Quyết định số 45/2016/QĐ-CP ngày 19/10/2016 về việc tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công ích…
Nhìn chung, pháp luật về dịch vụ công hiện nay khá phong phú, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong việc hưởng lợi các dịch vụ công từ việc cung cấp của cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp hoặc tham gia cung cấp dịch vụ công theo cơ chế xã hội hoá. Pháp luật về dịch vụ công quy định tương đối rõ ràng giữa dịch vụ hành chính công, dịch vụ sự nghiệp công và dịch vụ công ích. Từ đó, có những quy định điều chỉnh nội dung đối với từng loại dịch vụ, phù hợp với tính chất của từng loại dịch vụ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đó, vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế, cụ thể: việc nghiên cứu, quán triển, thể chế hoá, luật hoá các vấn đề về dịch vụ công, dịch vụ hành chính công, dịch vụ sự nghiệp công còn chưa được chú trọng12. Một số văn bản chưa được cập nhật kịp thời để phản ánh những thay đổi trong thực tiễn xã hội và quốc tế, dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định. Ngoài ra, việc thiếu đồng bộ trong triển khai và thực thi pháp luật cũng làm giảm hiệu quả của hệ thống dịch vụ công, đôi khi gây khó khăn và rắc rối cho người dân và doanh nghiệp.
Để nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công, thời gian tới cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính thống nhất và ổn định, đồng thời tăng cường công tác giám sát và đánh giá tác động của các quy định mới. Một hệ thống pháp luật minh bạch, rõ ràng và dễ tiếp cận sẽ là chìa khóa để xây dựng niềm tin và sự hài lòng của người dân, qua đó góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Hai là, đổi mới tổ chức cung ứng dịch vụ sự nghiệp công trong nền kinh tế.
Trong bối cảnh hiện nay, việc tái cấu trúc và nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập là một yêu cầu cấp thiết, xuất phát từ những thách thức và kinh nghiệm tích lũy được qua quá trình vận hành. Để thực hiện điều này, việc cải tổ và tinh gọn bộ máy tổ chức, đặc biệt là ở những đơn vị không hoàn toàn dựa vào ngân sách nhà nước là bước đi quan trọng nhằm tối ưu hóa hiệu suất và chi phí. Việc mở rộng cơ hội cho khu vực tư nhân tham gia vào việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công đang là một động thái tích cực giúp huy động nguồn lực và năng lực quản lý từ khu vực này để thực hiện các mục tiêu xã hội của Nhà nước.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay đòi hỏi sự đổi mới không ngừng trong việc cung ứng dịch vụ. Trong đó, bao gồm việc giảm bớt hoặc tái cấu trúc các đơn vị sự nghiệp công, bảo đảm rằng dịch vụ được cung cấp liên tục và đầy đủ. Sự tham gia của khu vực tư nhân, bao gồm cả các tổ chức phi chính phủ và doanh nghiệp phi lợi nhuận, đặc biệt là ở những khu vực khó khăn như nông thôn và vùng sâu vùng xa cần được khuyến khích hơn nữa để bảo đảm cung ứng dịch vụ sự nghiệp công một cách hiệu quả. Ngoài ra, các chính sách tài chính về thuế, tín dụng, giá, tư nhân hoá, chi ngân sách cũng cần được cập nhật và đổi mới để đạt được những mục tiêu trong cung ứng dịch vụ sự nghiệp công của Chính phủ.
Ba là, đổi mới cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường.
Đảng và Nhà nước đang tiến hành cải cách mạnh mẽ việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường và tăng cường xã hội hóa. Theo định hướng từ Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII), các bước đi cụ thể đã được xác định để đẩy mạnh quá trình này, bao gồm việc điều chỉnh chính sách, pháp luật nhằm mở rộng phạm vi cho thị trường trong việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Cùng với đó, việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập sang mô hình tự chủ, thậm chí hình thành công ty cổ phần khi đáp ứng đủ điều kiện cũng cần được khuyến khích.
Trong lĩnh vực giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp, y tế và khoa học – công nghệ, nhất là ở những khu vực có tiềm năng xã hội hóa cao cần nghiên cứu áp dụng cơ chế tự chủ và xã hội hóa. Việc khuyến khích sự ra đời của các đơn vị sự nghiệp tư nhân trong những lĩnh vực này là bước đi quan trọng, thúc đẩy chiến lược đổi mới giáo dục. Nhà nước cũng cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục nghề nghiệp, liên kết chặt chẽ với nhu cầu của thị trường lao động. Bên cạnh đó, tạo điều kiện cho các tổ chức khoa học và công nghệ công lập sở hữu và khai thác kết quả nghiên cứu khoa học nhằm tạo sự chuyển biến tích cực hướng tới việc thương mại hóa và ứng dụng các phát minh, sáng chế.
Trong lĩnh vực y tế, cần đẩy mạnh việc triển khai cơ chế hợp tác công – tư, thông qua việc xây dựng cơ chế hợp tác đầu tư giữa các bệnh viện công và tư cũng như giữa các bệnh viện công với nhau, qua đó mở ra cơ hội thúc đẩy sự phát triển của ngành nói chung. Sự minh bạch trong các hoạt động liên doanh, liên kết và hợp tác công – tư là yếu tố then chốt để bảo đảm sự bảo toàn và phát triển vốn, tài sản nhà nước, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công và mang lại lợi ích cho người dân13.
Bốn là, đổi mới cơ chế cung ứng dịch vụ công ích theo hướng hiệu quả.
Thời gian tới, chính quyền các địa phương cần nghiên cứu ban hành quyết định đo lường chất lượng hoạt động và cung cấp một số dịch vụ công ích trên địa bàn. Mục tiêu của hoạt động này là nhằm đo lường sự hài lòng của người dân trên một số lĩnh vực dịch vụ công ích để đánh giá khách quan chất lượng hoạt động và cung cấp dịch vụ. Đồng thời, tạo cơ sở tham khảo khách quan, khoa học nhằm hỗ trợ các cơ quan quản lý nhà nước và các đơn vị cung ứng dịch vụ nắm bắt yêu cầu, mong muốn của người dân để có những biện pháp cải thiện chất lượng cung ứng dịch vụ nhằm nâng cao sự hài lòng và lợi ích của người dân. Các tiêu chí đo lường có thể tham khảo áp dụng 5 tiêu chí cơ bản như một số thành phố lớn ở Việt Nam đã áp dụng để đánh giá sự hài lòng của người dân về chất lượng hoạt động và cung cấp dịch vụ công ích của các đơn vị cung cấp dịch vụ, cụ thể gồm: tiếp cận dịch vụ; công cụ, phương tiện cung cấp dịch vụ; thái độ phục vụ; chất lượng, kết quả cung cấp dịch vụ; tiếp nhận kiến nghị và phản hồi.
Chính quyền địa phương cần giao cho các đơn vị chức năng chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan, triển khai công tác điều tra xã hội học đánh giá sự hài lòng của người dân về chất lượng hoạt động và cung cấp dịch vụ công ích trong các lĩnh vực, như: thu gom, vận chuyển xử lý rác thải đô thị; thoát nước đô thị; cung cấp điện; cung cấp nước sạch; vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt, đường sắt đô thị định kỳ hàng năm. Đồng thời, xây dựng báo cáo đánh giá chất lượng hoạt động và cung cấp một số dịch vụ công ích của người dân trên địa bàn hàng năm, trình chính quyền địa phương cấp tỉnh tham khảo, ban hành các chính sách mới cho phù hợp. Cùng với đó, hỗ trợ, cung cấp số liệu phục vụ việc chọn mẫu trong thời gian lựa chọn điều tra xã hội học hằng năm cho các cơ quan chức năng đối với dịch vụ công ích được chọn điều tra và quản lý.
Các địa phương ở các đô thị cũng cần chủ động xây dựng phương án tổng thể quản lý việc duy trì vệ sinh môi trường, cây xanh (theo phân cấp). Chủ động giám sát việc thực hiện cam kết về công nghệ và thiết bị cơ giới hóa trong cung ứng dịch vụ công ích của doanh nghiệp trên địa bàn… Ðặc biệt, cần tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm cũng như tuyên truyền, vận động người dân tự giác giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ hệ thống hạ tầng kỹ thuật xã hội…
3. Kết luận
Tóm lại, nâng cao hiệu quả cung ứng dịch vụ công tại Việt Nam hiện nay vừa là một yêu cầu cấp thiết đáp ứng sự mong đợi ngày càng cao của người dân, đồng thời là giải pháp quan trọng góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Thông qua việc đánh giá thực trạng cung ứng dịch vụ công ở nước ta cho thấy, cải thiện chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ công không chỉ giúp tăng cường niềm tin của công dân vào hệ thống chính trị, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, thu hút đầu tư và nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam.
Hơn nữa, một hệ thống dịch vụ công hiệu quả cũng sẽ là điều kiện thúc đẩy sự công bằng xã hội, bảo đảm quyền lợi và tiếp cận dịch vụ cơ bản cho mọi tầng lớp nhân dân, từ đó góp phần vào việc giảm nghèo và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số mạnh mẽ như hiện nay, việc đổi mới và tối ưu hóa dịch vụ công càng có ý nghĩa quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và tạo cơ sở vững chắc cho một tương lai phát triển thịnh vượng cho mỗi người dân Việt Nam.
Chú thích:
1. Quản lý nhà nước đối với dịch vụ công trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, https://tcnn.vn, ngày 08/7/2021.
2. Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên) (2006). Hành chính công. H. NXB Khoa học và Kỹ thuật, tr 453.
3. Về đổi mới quản lý và phát triển dịch vụ sự nghiệp công, https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_r/l/tin-bo-tai-chinh?
4. Chính phủ (2019). Khoản 4 Điều 3 Nghị định số 32/2019/NĐ-CP ngày 10/4/2019 quy định giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên.
5, 7. Giải pháp đẩy mạnh dịch vụ công trực tuyến của cơ quan quản lý nhà nước. https://tapchitaichinh.vn, ngày 11/6/2023.
6. Thực trạng pháp luật về dịch vụ công. https://quochoi.vn, ngày 09/5/2018.
8. Vũ Thị Hoài Phương (2018). Nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, Tạp chí Giáo dục lý luận, Số 271 (01/2018).
9. Tổng cục Thống kê (2021). Báo cáo Tổng điều tra kinh tế năm 2021.
10. Hoàn thiện thể chế thị trường dịch vụ sự nghiệp công trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. https://kinhtetrunguong.vn, ngày 02/11/2022.
11. Bất cập đấu thầu dịch vụ công ích. https://vtv.vn, ngày 27/10/2023.
12. Thực trạng pháp luật về dịch vụ công. https://quochoi.vn, ngày 09/5/2018.
13. Nhiệm vụ và giải pháp về đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường. https://dangcongsan.vn, ngày 23/11/2018.
Tài liệu tham khảo:
1. Trương Quốc Việt (Chủ biên) (2023). Cơ sở lý luận và thực tiễn về dịch vụ công ở Việt Nam hiện nay. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Nguyễn Văn Kiều (Chủ biên) (2022). Niềm tin của người dân đối với dịch vụ công ở khu vực nông thôn các tỉnh miền núi phía Bắc. H. NXB Lý luận Chính trị.
3. Đào Thị Thanh Thuỷ (2022). Giáo trình Quản lý nhà nước về dịch vụ công. H. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Thu Hương (Chủ biên) (2021). Chính sách tài chính về xã hội hoá dịch vụ công – Một chặng đường. H. NXB Tài chính.
5. Cục Quản lý giá – Bộ Tài chính (2022). Cơ chế, chính sách về giá dịch vụ công trong lĩnh vực y tế, giáo dục. H. NXB Tài chính.