Trung tá, TS. Phùng Quang Phát
Thiếu tá, TS. Nguyễn Tú Anh
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Phát biểu Chỉ đạo tại cuộc họp với Thường trực Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV của Đảng ngày 13/8/2024 của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã nhấn mạnh: cần thống nhất nhận thức về khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Do đó, giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế linh hoạt, sáng tạo trên nguyên tắc “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong kỷ nguyên mới cho phép khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế, xây dựng thực lực kinh tế của đất nước; tạo cơ sở, tiền đề vững chắc cho việc chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước với thế giới.
Từ khóa: Nền kinh tế độc lập, tự chủ, hội nhập, kỷ nguyên mới.
1. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ hướng đi đúng đắn, phù hợp và sáng tạo của Đảng, Nhà nước ta
Nước ta có nhiều tiềm năng, lợi thế về nguồn lực tự nhiên, nguồn lực xã hội để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đó là: nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động dồi dào, phong phú, đa dạng, đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường, kể cả thị trường khó tính trong và ngoài nước; Nhân dân ta có truyền thống tự lực, tự cường trong phát triển kinh tế – xã hội, không dựa dẫm, trông chờ vào bên ngoài, luôn phát huy nội lực theo tinh thần “thục túc binh cường”; tích cực, chủ động tìm kiếm, lựa chọn những đối tác, doanh nghiệp tin cậy trong hợp tác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đặc biệt, trong quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ có ý nghĩa quan trọng, vừa bảo đảm khả năng chống chịu của nền kinh tế, vừa bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước. Khi chúng ta đã xây dựng được một tiềm lực kinh tế đủ mạnh, ít phụ thuộc vào bên ngoài, tạo cơ sở, tiền đề cho các lĩnh vực, ngành nghề khác phát triển. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ phải thực sự dựa vào những cơ sở, nền tảng vốn có của nó, không quá lệ thuộc vào sự giúp đỡ, hỗ trợ của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác từ bên ngoài. Tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế được thể hiện ngay ở việc xác lập một thể chế, hướng đi đúng đắn, phù hợp với đặc điểm tình hình cụ thể của Việt Nam. Đảng ta khẳng định: “Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước”1.
Nhận thức về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Đảng ta là quá trình liên tục gắn liền với thực tiễn xây dựng đất nước và thực hiện đường lối đối ngoại, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm đưa đất nước ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) của Đảng đã chỉ rõ: “quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là một trong các mối quan hệ lớn, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt”2. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) cũng chỉ rõ: “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng”3. Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị (khoá XI) về hội nhập quốc tế đã xác định những mục tiêu, quan điểm chỉ đạo căn bản, toàn diện của hội nhập quốc tế nhằm củng cố môi trường hoà bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân…
Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (năm 2016) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế… kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”4.
Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 5/11/2016 của Bộ Chính trị về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã khẳng định mục tiêu cơ bản, xuyên suốt “Thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững; nâng cao đời sống Nhân dân”5.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (năm 2021) của Đảng khẳng định: “Đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế”6.
Từ những mục tiêu, quan điểm đường lối của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với chủ động hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới cho thấy một số nội dung cơ bản sau:
Một là, khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; sự phát triển của nền kinh tế được bắt nguồn từ chính các nguồn lực sẵn có của đất nước, đó là những tiềm năng, lợi thế quốc gia trong tiến trình hội nhập quốc tế để tránh sự lệ thuộc vào bên ngoài.
Hai là, hội nhập quốc tế để thu hút các nguồn lực từ bên ngoài, quảng bá, giới thiệu hình ảnh, đất nước con người Việt Nam, tăng lên sự tin cậy, hiểu biết nhau giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, thế giới và các tổ chức, diễn đàn kinh tế thế giới.
Ba là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đặt trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với các ngành, lĩnh vực khác, hỗ trợ, thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân.
Bốn là, bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước, trên nguyên tắc tối thượng là lợi ích quốc gia, dân tộc, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, khơi dậy tính năng động, sáng tạo của các thành phần kinh tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Năm là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ không đồng nghĩa với đóng cửa, cài then, không giao lưu, mở rộng, hoặc đón nhận những điều kiện thuận lợi từ hội nhập quốc tế đem lại; ngược lại, luôn tích cực, chủ động kế thừa, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, thành tựu tiến bộ khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý, điều hành kinh tế của các nước tiên tiến hiện đại thế giới để xây dựng, hoạch định, xác định hướng đi đúng đắn, phù hợp và hiệu quả của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đất nước.
2. Thực trạng, biện pháp xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần củng cố, giữ vững và nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Đảng, Nhà nước ta đã từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách theo hướng mở trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, khuyến khích, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế nước ngoài vào Việt Nam phát triển kinh tế theo đúng Hiến pháp, pháp luật.
Cải cách thủ tục hành chính, thực hiện chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ trong phát triển kinh tế, giải quyết linh hoạt, sáng tạo những khó khăn, bất cập trong quá trình phát triển kinh tế của doanh nghiệp. Đặc biệt, luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước với thành phần kinh tế nhà nước; kinh tế tư nhân được khuyến khích, tạo mọi môi trường thuận lợi để phát triển nhưng phải gắn với phát triển bền vững, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Tích cực, chủ động tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới, các diễn đàn kinh tế song phương, đa phương, ký kết, hợp tác với nhiều tập đoàn kinh tế lớn, có uy tín của thế giới. Chính vì vậy, trong năm 2023 tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta tương đối ổn định: quý 1 GDP tăng 3,28%; quý II tăng 4,08%, quý III tăng 5,33%, thuộc nhóm nước tăng trưởng cao của khu vực, thế giới7.
Hiện nay, Việt Nam đã vươn lên lọt vào Top 40 nền kinh tế hàng đầu, có quy mô thương mại hàng đầu trong Top 20 quốc gia trên thế giới, mắt xích quan trọng trong 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) gắn kết với 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu. Thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia trên thế giới, có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các thành viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc, là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế8.
Những kết quả trên đã khẳng định việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế là hướng đi đúng đắn, phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của Nhân dân; góp phần quan trọng vào khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển về kinh tế”9.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế còn một số hạn chế: khả năng chống chịu của nền kinh tế còn thấp, chưa thật sự ổn định và mang tính bền vững; cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho người dân, doanh nghiệp còn chậm, nhiều thủ tục hành chính; năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của một số tập đoàn kinh tế còn yếu, chưa đáp ứng được với những biến động của thị trường, còn để xảy ra những thất thoát, lãng phí trong sử dụng nguồn lao động, tài chính, thậm chí còn dùng thủ đoạn, mánh khoé trong sản xuất, kinh doanh gây bất lợi cho người dân, nhà đầu tư, hợp tác.
Đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá: “Về kinh tế chất lượng tăng trưởng, khả năng cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; môi trường ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Trong khi đó sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế”10.
Trước bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đó là: cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, đặc biệt giữa Mỹ – Trung Quốc diễn ra gay gắt, quyết liệt và chi phối đến quan hệ quốc tế hiện nay; Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc, toàn diện đến mọi lĩnh vực, ngành nghề và đời sống xã hội con người, gia tăng mức độ cạnh tranh về vũ khí quân sự và khoảng cách chênh lệch giàu – nghèo; toàn cầu hoá vẫn là xu thế lớn lôi cuốn mọi quốc gia, dân tộc tham gia vào sân chơi quốc tế với nhiều luật chơi khác nhau; xu hướng dân chủ hoá quan hệ quốc tế bị thách thức, đe doạ nghiêm trọng bởi chính trị cường quyền, cạnh tranh nước lớn; những thách thức an ninh phi truyền thống đã, đang và sẽ còn tiếp diễn phức tạp, đặt ra cho quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc phải đẩy mạnh hơn nữa.
Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, Đông Nam Á là trung tâm tăng trưởng của thế giới nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố gây bất ổn định. Thực tế đó đặt ra cho Việt Nam phải có chiến lược, hình thức, bước đi đúng đắn, phù hợp, hiệu quả trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế trong một thế giới đầy biến động, phức tạp hiện nay.
3. Một số biện pháp cơ bản
Với quan điểm “Phát triển kinh tế – xã hội là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”11, việc xây dựng nền kinh tế động lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới cần thực hiện một số biện pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, người dân và doanh nghiệp về tầm quan trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế.
Các cấp lãnh đạo, người dân và doanh nghiệp quán triệt và nhận thức sâu sắc những quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế; từng bước thay đổi tư duy lý luận, thực tiễn tính độc lập, tự chủ trong hoạch định, xác định chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế – xã hội và mở rộng hợp tác quốc tế bằng thực lực, bằng nguồn lực sẵn có của mình, không trông chờ, dựa dẫm, ỉ lại vào sự giúp đỡ, hỗ trợ của bên ngoài.
Việc phát triển một lĩnh vực, ngành nghề cụ thể và tiến hành các hoạt động ký kết, hợp tác phát triển phải trên tinh thần độc lập, tự chủ, thống nhất về nhận thức, hành động, không được gượng ép và mang tính bắt buộc, đặt ra những điều kiện để ràng buộc, gây sức ép. Đảng ta khẳng định: “Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân về hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung.
Nâng cao hiểu biết và sự đồng thuận của xã hội, đặc biệt là của doanh nghiệp, doanh nhân đối với các thoả thuận quốc tế, đặc biệt là cơ hội, thách thức và những yêu cầu phải đáp ứng khi tham gia và thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới bằng các hình thức, nội dung tuyên truyền phù hợp và hiệu quả cho từng ngành hàng, hiệp hội, doanh nghiệp và cộng đồng”12. Vì vậy, hơn lúc nào hết lãnh đạo các doanh nghiệp, nhà máy, xí nghiệp tham gia vào quá trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế phải dựa vào thực lực của mình là cơ bản, chủ yếu, phát huy tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực trên cơ sở tối cao vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Phát huy cao độ tính năng động, sáng tạo của người dân, doanh nghiệp trong lựa chọn mô hình, cách thức, đối tác trong hợp tác phát triển phù hợp với đặc điểm, truyền thống văn hoá Việt Nam và tuân thủ luật pháp vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hai là, tích cực, chủ động điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện thể chế về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
Đảng ta khẳng định: “Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều kiện quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết”13.
Chính phủ cần cụ thể hoá, thể chế hoá những quy định của Đảng, Nhà nước thành những văn bản, chỉ thị rất cụ thể, rõ ràng, đầy đủ, toàn diện trên các lĩnh vực, mặt hoạt động khác nhau theo hướng lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm của sự đổi mới phát triển; nghiên cứu, rà soát những văn bản đã ban hành còn phù hợp với thực tiễn đang đặt ra không, nếu không hợp lý, gây khó khăn cho người dân, doanh nghiệp lập tức lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, ban, ngành có thẩm quyền xoá bỏ, ban hành văn bản mới trên cơ sở kế thừa hạt nhân hợp lý của những văn bản trước.
Xây dựng cơ chế, chính sách về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế phải vì lợi ích của đất nước, của Nhân dân, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp Nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh; khả năng chống chịu của nền kinh tế được bảo đảm vững chắc trước mọi diễn biến rủi ro của thị trường và những thách thức an ninh phi truyền thống hiện nay.
Tăng cường sự quản lý nhà nước đối tập đoàn, tổng công ty nhà nước; khuyến khích, tạo điều kiện cho doanh nghiệp vừa và nhỏ cạnh tranh, phát triển lành mạnh vì sự phát triển của một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên mới. Bảo đảm sự quản lý nhà nước đối với các chính sách tài khoá, tiền tệ, nắm giữ những ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng để điều tiết quá trình sản xuất – phân phối – lưu thông đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho người dân, doanh nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, hội nhập quốc tế.
Ba là, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên mới.
Con người là trung tâm, chủ thể của sự phát triển, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế cần phải đặc biệt chú trọng đến việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo đó, cần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các bậc học, nhất là các trường đại học thuộc khối kỹ thuật, công nghệ để thực hành chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ vào từng lĩnh vực, hoạt động cụ thể; đổi mới nội dung chương trình giáo dục, đào tạo theo hướng tiếp cận thị trường, phối hợp với doanh nghiệp để xây dựng khung chương trình phù hợp, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi khắt khe của thị trường lao động trong và ngoài nước hiện nay.
Tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo với các quốc gia có nền giáo dục tốt, phát triển kinh tế cao, như: Trung Quốc, Mỹ, Singapore…; sắp xếp, sử dụng, bố trí nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao hợp lý, phù hợp, tránh lãng phí trong sử dụng; có cơ chế, chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài vào làm việc ở những lĩnh vực, ngành nghề đòi hỏi làm lượng trí tuệ cao, có kỹ thuật như: công nghệ thông tin, điện tử, bán dẫn, tự động hoá, lắp ráp, chuyển giao công nghệ.
Phát huy sức mạnh của các tổ chức, lực lượng, của cả hệ thống chính trị trong nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng phương châm học tập suốt đời không chỉ cho người học, còn đối với người dân và doanh nghiệp trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Bảo đảm đầy đủ các điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế, như: vốn, kinh nghiệm quản lý, điều hành, địa điểm, môi trường…
Bốn là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế.
Đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh của thời đại. Khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”14. Với tinh thần này, các cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương cùng tham gia vào quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; xây dựng môi trường dân chủ, nhân văn để các thành phần kinh tế cùng tham gia vào việc hiện thực hoá quan điểm, đường lối của Đảng về chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới.
Mỗi người dân và doanh nghiệp đều phải có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với việc phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế; thường xuyên chú trọng đến sự phát triển mang tính ổn định, bền vững, lâu dài của từng hoạt động kinh tế cụ thể cũng như trong quá trình tham gia vào các sân chơi song phương, đa phương ở phạm vi trong nước và quốc tế. Khơi dậy ý chí tự tin, tự lực, tự cường của mỗi người dân, doanh nghiệp trong phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế; cũng hết sức coi trọng sự ủng hộ, tạo điều kiện, giúp đỡ từ các tổ chức, cá nhân để thúc đẩy hơn nữa việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và cơ hội trong giao lưu, mở rộng quan hệ quốc tế.
4. Kết luận
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế trong kỷ nguyên mới có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại không tách rời nhau; độc lập, tự chủ là điều kiện tiên quyết để chủ động hội nhập quốc tế và ngược lại, chủ động hội nhập quốc tế là cơ sở xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Do đó, đặt ra cho các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương hành động mạnh mẽ, quyết liệt, đổi mới tư duy, phong cách lãnh đạo, quản lý để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mỗi hình thức, bước đi của việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong kỷ nguyên mới đều gắn liền với quá trình chủ động nhập quốc tế; từ đó, đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa quốc tế sâu rộng trong kỷ nguyên mới. Đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Trong thế giới toàn cầu hoá như hiện nay. Sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc không thể biệt lập, đứng ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó”17.
Chú thích:
1, 6, 11, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 135, 135, 33, 135.
2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 73, 75.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 111.
5, 12. Bộ Chính trị (2016). Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 5/11/2016 về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
7. Cơ hội lớn từ nâng tầm quan hệ với các nước. https://daibieunhandan.vn.
8. Toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm Quốc khánh (2/9/1945-2/9/2024). https://xaydungchinhsach.chinhphu.
9, 10, 16, 17. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 33, 34-35, 49, 37.