Quá trình phát triển nhận thức về thực hiện dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn từ sự kiện của tỉnh Thái Bình (1997 – 1999) đến nay

TS. Lê Quang Hòa
ThS. Nguyễn Văn Sơn
Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Dân chủ vừa là hệ giá trị, vừa là một tiến trình. Ở Việt Nam, quá trình nhận thức và thực hành dân chủ cũng trải qua nhiều bước khó khăn, thăng trầm, nhất là sau sự kiện của tỉnh Thái Bình từ năm 1997 – 1999, đến nay, lý luận về dân chủ, chủ trương, đường lối thực hiện dân chủ ở cơ sở của Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước được bổ sung và hoàn thiện. Nhằm cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, hệ thống chính sách, pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng từng bước được hoàn thiện theo đúng phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bài viết khái lược toàn diện quá trình phát triển nhận thức của Đảng và Nhà nước về thực hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn từ năm 1997 cho đến nay, đồng thời, nêu ra một số bài học kinh nghiệm về quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Từ khóa: Sự kiện Thái Bình; dân chủ; dân chủ cơ sở; nhận thức, phát triển; xã, phường, thị trấn.

1. Cơ sở hình thành nhận thức về thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam

Sự ra đời và phát triển của dân chủ gắn liền với sự xuất hiện của xã hội loài người. Dân chủ thể hiện khát vọng của con người hướng tới một xã hội tốt đẹp không có áp bức, bất công. “Dân chủ có nghĩa là dân làm chủ mọi quyền lực xã hội”1. Sau hàng nghìn năm phát triển, đến nay, dân chủ đã trở thành một một nhu cầu không thể thiếu của mỗi cá nhân, cộng đồng và xã hội. Dân chủ không chỉ là một động lực quan trọng đối với sự phát triển của xã hội mà còn thể hiện bản chất của một chế độ xã hội.

Ở Việt Nam, trước khi sự kiện Thái Bình nổ ra (1997 – 1999), dân chủ đã là một vấn đề rất được quan tâm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (năm 1976) nhấn mạnh yêu cầu xây dựng một nhà nước do Nhân dân lao động làm chủ trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và chính phục tự nhiên. Đó là một xã hội có khả năng “kết hợp hữu cơ quyền làm chủ tập thể với quyền tự do chân chính của từng cá nhân”2 và là “một nhà nước kiểu mới, nhà nước do chính giai cấp công nhân và nhân dân lao động tự tổ chức để thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình, nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, thông qua đó, Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với xã hội”3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ trong tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ. Dân chủ đã được triển khai mạnh mẽ “từ các lĩnh vực tư tưởng, chính trị và đặc biệt là kinh tế (lĩnh vực mà cho đến lúc bấy giờ còn nhiều nhận thức sai lầm), trao cho nhân dân quyền chủ động sản xuất kinh doanh, chủ động cải thiện đời sống của mình”4. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V) trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng nhấn mạnh: “Quyền làm chủ của nhân dân cần được thể chế hoá bằng pháp luật và tổ chức. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, quyền hạn và lợi ích đi đôi với trách nhiệm và nghĩa vụ […] Nhà nước ta phải bảo đảm quyền dân chủ thật sự của nhân dân lao động, đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm quyền làm chủ của nhân dân”5. Trên tinh thần đó, Điều 2 Hiến pháp năm 1992 ghi rõ: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Đồng thời, để xây dựng Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (tháng 01/1994) nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân  đã chính thức được đề cập. Đây là lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng, thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” được sử dụng. Đến năm 2001, khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, lần đầu tiên thuật ngữ này được hiến định “tạo cơ sở pháp lý quan trọng để hiện thực hóa việc xây dựng nhà nước pháp quyền”6 xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Việc xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ nhằm mục tiêu hạn chế sự tha hóa quyền lực, phòng, chống nạn quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước mà còn khơi dậy sức mạnh tiềm năng, trí tuệ của Nhân dân trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

Trong Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ươngĐảng (khóa VIII), về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh đã nhấn mạnh yêu cầu: “Xây dựng quy chế thực hiện công khai và dân chủ việc xét duyệt các chương trình kinh tế – xã hội, dự án đầu tư, phân bổ ngân sách, kinh phí, cấp giấy phép… nhằm ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực. Tăng cường kiểm kê, kiểm soát, kiểm tra việc chi tiêu ngân sách nhà nước, tài sản công, tài chính đảng, đoàn thể, các loại quỹ do dân đóng góp ở tất cả các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở”7. Từ nội dung của Nghị quyết, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thấy nguy cơ của mất dân chủ và vai trò của quy chế dân chủ đối với an ninh, sự phát triển của Việt Nam. Đồng thời, việc thực hiện dân chủ cơ sở là khâu quan trọng, cần thực hiện ngay để bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân và khẳng định bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Để nâng cao chất lượng đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân ở khu vực nông thôn, những năm 90 thế kỷ XX, Việt Nam đã có chủ trương phát triển cơ sở hạ tầng với sự đóng góp của nhân dân trọng tâm là xây dựng: điện – đường – trường – trạm. Chủ trương mới đã góp phần nâng cao chất lượng đời sống của đông đảo quần chúng nhân dân ở khu vực nông thôn. 

Tại Thái Bình chủ trương này đã được triển khai và nhận được sự hưởng ứng tích cực của Nhân dân dù cuộc sống còn nhiều khó khăn. Tuy nhiên, quá trình quản lý tài chính, ngân sách ở địa phương lại thiếu dân chủ, một số cán bộ xã có sai phạm trong sử dụng các nguồn thu của dân, từ đó dẫn đến tình trạng Nhân dân khiếu kiện kéo dài8. Việc giải quyết đơn khiếu kiện, bức xúc của Nhân dân không được các cấp chính quyền quan tâm đúng mức, thậm chí là “lờ đi”, “im lặng” hoặc thanh tra công khai không có kết quả cùng với “những bất bình khi chứng kiến một số cán bộ xã giàu lên bất thường đã khiến cho mâu thuẫn giữa người dân và chính quyền bùng phát”9. Những bức xúc kéo dài của người dân không được chính quyền giải quyết kịp thời đã dẫn tới các cuộc biểu tình của người dân và diễn biến theo chiều hướng bạo lực (bạo lực từ hai phía). Đỉnh điểm của sự việc gần 300 người dân xã Quỳnh Hoa bắt, trói Bí thư và chủ tịch xã đưa lên huyện ngày 08/6/1997 và sự kiện tối ngày 26/6/1997, hàng nghìn người dân xã An Ninh đã đập phá trụ sở xã, đốt phá tài sản của hàng loạt gia đình cán bộ xã”10, hành hung và bắt nhốt cán bộ. Giai đoạn từ năm 1997 – 1999, tỉnh Thái Bình được đánh giá là “điểm nóng” nhất về mất ổn định chính trị – xã hội ở nông thôn của Việt Nam. Sau khi được sự hỗ trợ, giúp đỡ của Trung ương, tình hình chính trị – xã hội ở Thái Bình đã dần ổn định trở lại, hệ thống chính quyền cấp cơ sở được kiện toàn và trở lại hoạt động bình thường.

2. Sự phát triển nhận thức của Đảng, Nhà nước Việt Nam về thực hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường và thị trấn từ năm 1997 đến nay

Sự kiện tại Thái Bình diễn ra từ năm 1997 – 1999 đã gây nên sự bất ổn chính trị – xã hội ở nông thôn Việt Nam những năm sau đổi mới. Đây chính là hồi chuông cảnh báo và bài học kinh nghiệm đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở cho đến nay. 

Sau khi Thái Bình trở thành điểm nóng về chính  trị – xã hội, Bộ Chính trị đã nhanh chóng ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã nêu rõ khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ở cơ sở, nơi cần thực hiện quyền dân chủ của Nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất; có chế độ và hình thức báo cáo công khai trước dân công việc của chính quyền, cơ quan, đơn vị về sản xuất và phân phối, về việc sử dụng công quỹ, tài sản công, về thu, chi tài chính, các khoản đóng góp của dân, quyết toán các công trình xây dựng cơ bản, chế độ thu và sử dụng học phí, viện phí… Những nội dung này đã phản ánh tình hình thực tiễn về vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, hợp lòng dân, thể hiện nhận thức mới của Đảng về thực hiện, mở rộng dân chủ cơ sở; đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi bức thiết của Nhân dân về vấn đề dân chủ cơ sở trong quá trình đổi mới. 

Sau khi Chỉ thị số 30-CT/TW được ban hành và dần đi vào cuộc sống, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 45/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 26/02/1998 về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Nghị quyết hướng tới việc quy rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của chính quyền cơ sở trong thực hiện dân chủ cơ sở và quy định quyền được thông tin, giám sát của Nhân dân. Trên cơ sở nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã kịp thời ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, trong đó nhấn mạnh: dân chủ là bản chất của chế độ và Nhà nước tacác hình thức thực hiện quy chế dân chủ ở cấp cơ sở không chỉ ở xã mà còn ở thôn, làng, ấp, bản. Trên cơ sở đó, quyền làm chủ của Nhân dân được bảo đảm, tạo được niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước.

Tiếp đến, Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội Nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn; Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 28/3/2002 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở khẳng định: việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở đã đạt được những kết quả ban đầu nhưng chưa vững chắc, chưa rộng khắp…; dân chủ hình thức còn nhiều; tình trạng vi phạm quyền làm chủ của dân cũng như tình trạng lợi dụng dân chủ, vi phạm kỷ cương, pháp luật còn xảy ra ở nhiều nơi. Điều này đã đặt ra yêu cầu về việc hoàn thiện các quy chế đã ban hành và có hướng dẫn cụ thể cho việc thực hiện dân chủ cơ sở. 

Để đáp ứng yêu cầu về thực hiện dân chủ cơ sở trong tình hình mới, ngày 07/7/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2003/NĐ-CP về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã thay cho Nghị định số 29/1998/NĐ-CP, theo đó, các phương thức thực hiện dân chủ ở cơ sở và bổ sung thêm một khoản trong những việc dân giám sát, kiểm tra, đó là: các công trình của cấp trên triển khai trên địa bàn xã có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, an ninh, trật tự, văn hóa – xã hội, vệ sinh môi trường và đời sống của Nhân dân địa phương. Khoản 7 Điều 12 Nghị định số 79/2003/NĐ-CP cho thấy, nhận thức sâu sắc của Việt Nam về dân chủ: phát triển đất nước phải đi đôi với bảo đảm lợi ích của Nhân dân (đời sống, an sinh – xã hội cho Nhân dân). 

Tiếp tục phát triển quan điểm, chủ chương và chính sách về thực hiện dân chủ cơ sở, Đại hội X của Đảng (năm 2006) khẳng định: “Phát huy dân chủ là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với tiến trình phát triển của nước ta”11Mặc dù, Việt Nam đã có những bước tiến lớn về dân chủ sau đổi mới nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế, như: tình trạng vị phạm dân chủ vẫn tồn tại ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực; dân chủ quá trớn, dân chủ không đi đôi với kỷ cương kỷ luật. Đại hội X cũng nhấn mạnh: “đặc biệt coi trọng các biện pháp có hiệu quả nhằm phát huy cao nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”12. Trên cơ sở đó, ngày 20/4/2007, Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã được ban hành, nêu rõ nguyên tắc thực hiện dân chủ ở cấp xã, trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã, các hành vi bị nghiêm cấm (đây là những điểm hoàn toàn mới so với Nghị định số 79/2003/NĐ-CP). Nội dung phải công khai để Nhân dân biết, Nhân dân bàn và quyết định, Nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và giám sát; quy định rõ trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã, của cán bộ thôn, tổ dân phố, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của Nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.

Sau 12 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 04/3/2010, Ban Bí thư đã ra Kết luận số 65-KL/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, đã thẳng thắn thừa nhận những hạn chế khuyết điểm trong thực hiện dân chủ cơ sở ở một số địa phương còn mang tính hình thức, chất lượng chưa cao. Từ đó, Kết luận số 65-KL/TW đặt ra yêu cầu về việc tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 30-CT/TW, trong đó nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, Nhân dân về thực hiện dân chủ cơ sở; tăng cường việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về dân chủ xã hội chủ nghĩa; gắn việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị; nâng cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị, phát huy cao vai trò làm chủ của Nhân dân trong phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, các tệ nạn, tiêu cực ở cơ sở; phát huy vai trò của ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, các cấp, các ngành; tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng trong việc thực hiện dân chủ cơ sở;… 

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh:“Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”. Điều này cho thấy, thực hiện dân chủ nói chung và dân chủ cơ sở nói riêng là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, lâu dài đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam.

Cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng về thực hiện dân chủ cơ sở Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam khẳng định: Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân (Điều 3); Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước (Điều 6); Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân (khoản 2 Điều 8); Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước và Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân (Điều 28);… Thực hiện dân chủ nói chung và dân chủ cơ sở nói riêng không chỉ là xu thế phát triển chung của nhân loại mà còn là yêu cầu bắt buộc ở Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 ra đời đã thể hiện tính nhất quán giữa đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong việc thực hiện dân chủ cơ sở ngày càng tốt hơn nhằm bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về Nhân dân.

Kế thừa và tiếp nối quan điểm nhất quán đó của Đảng, Văn kiện Đại hội XII (năm 2016) của Đảng khẳng định “tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”13; “Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện”14; “thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”15. Đại hội XIII của Đảg (năm 2021) khẳng định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước”16. Trên cơ sở đó, Đảng ta xác định: thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”17. Vì vậy, cần “thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở”18. Tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục bổ sung thêm hai nội dung “dân giám sát” và “dân thụ hưởng” vào trong nội dung Văn kiện, điều này làm sâu sắc hơn quan điểm “dân là gốc” và “vì nhân dân”. “Dân thụ hưởng” là mục tiêu cao nhất, mang giá trị bản chất nhất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhưng cũng là khâu cuối trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Với quan điểm, mục tiêu nhất quán là tiếp tục phát huy dân chủ nhằm bảo đảm quyền lực, lợi ích của Nhân dân, 24 năm sau khi Chỉ thị số 30-CT/TW (khóa VIII) được ban hành ngày 10/11/2022, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa XV) tại kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở với 6 chương, 91 điều. Luật đã cụ thể hóa đầy đủ phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Điều đó thể hiện nhận thức của Việt Nam về thực hiện dân chủ cơ sở đã có những bước phát triển mới đó là từ Pháp lệnh đã trở thành Luật

3. Bài học kinh nghiệm

Sự phát triển nhận thức của Việt Nam về thực hiện dân chủ cơ sở đã có quá trình phát triển lâu dài và ngày càng hoàn thiện. Thực hiện dân chủ nói chung và dân chủ cơ sở nói riêng không chỉ xu thế mà còn là yêu cầu bắt buộc nhằm khẳng định bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Việc thực hiện dân chủ cơ sở có hiệu quả, thực chất không chỉ sẽ góp phần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, tạo sự đồng thuận xã hội và củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân mà còn chống lại các âm mưu lợi dụng các vấn đề về dân chủ, dân tộc và tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo ra các điểm nóng về chính trị – xã hội hòng lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Từ sự kiện Thái Bình (1997 – 1999) cho thấy, việc bảo đảm và thực hiện dân chủ cơ sở là hết sức quan trọng, cần thiết. 

Bài học giá trị lớn nhất rút ra về thực hiện dân chủ ở cơ sở là chính quyền, cán bộ phải gần với người dân để hiểu, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân. Khi xuất hiện các vấn đề phát sinh tại cơ sở (trong khả năng, quyền hạn) cán bộ, chính quyền sẽ cùng Nhân dân tháo gỡ, tìm cách giải quyết để đi tới sự thống nhất chung. 

Công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, quy chế, pháp lệnh, luật đến chính quyền cấp cơ sở và cộng đồng dân cư giữ vai trò tiên quyết trong việc thực hiện hiệu quả dân chủ ở cơ sở. Chỉ khi nào chính quyền cấp cơ sở và cộng đồng dân cư cùng thông tỏ, hiểu biết đến nơi và cùng tự giác thực hiện thì khi đó những nội dung công khai, cùng bàn bạc, tham gia và giám sát mới thực sự đi vào bản chất, tránh hình thức – một hạn chế, tồn tại căn bản trong thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. 

Việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ đúng và trúng rất quan trọng. Sự kiện Thái Bình nổ ra,một phần do cán bộ cơ sở có sự thiếu hiểu biết về thực hiện dân chủ cơ sở và có biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức và lối sống. Do vậy, để thực hiện dân chủ cơ sở tốt trong điều kiện hiện nay bên cạnh việc mở các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ đối với các thành viên Ban Chỉ đạo thực hiện dân chủ cơ sở ở cấp xã mà cần phải xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất, đạo đức cách mạng, dám nói, dám làm và dám chịu trách nhiệm, nói đi đôi với làm, chí công vô tư. Cán bộ cơ sở phải thực sự là tấm gương sáng trong việc thực hiện dân chủ cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”19.

Thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định. Sựviệc các cấp chính quyền tại tỉnh Thái Bình thời điểm đó đã không thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của Nhân dân và đẩy những bức xúc của người dân với chính quyền lên đến đỉnh điểm, dẫn đến hệ quả là việc “nổi dậy chống chính quyền” khi người dân mất niềm tin vào các cấp ủy đảng và chính quyền cơ sở. Cũng chính việc thực hiện nghiêm túc tiếp dân, giải quyết đơn thư mà qua đó chính quyền cơ sở nắm chắc được tình hình và chủ động giải quyết các vấn đề phát sinh tại cơ sở khi mới manh nha.

Vì vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước về thực hiện dân chủ cơ sở trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật phải luôn là một nhiệm vụ quan trọng thường xuyên trong những nhiệm vụ chính trị của đất nước, địa phương, cơ quan, đơn vị và cá nhân. Do đó, công tác dân vận cần phải đặc biệt chú trọng xem đây là nhiệm vụ chiến lược nhằm tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân. 

4. Kết luận

Sự kiện Thái Bình từ năm 1997 – 1999 để lại bài học sâu sắc về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Thực hiện dân chủ ở cơ sở là phương thức phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Qua đó, người dân được thông tin, thể hiện ý chí nguyện vọng, chính kiến của mình thông qua thảo luận, tham gia ý kiến và giám sát. Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã không ngừng hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Điều này thể hiện sự quyết tâm chính trị cao độ trong việc xây dựng, hoàn thiện và bảo đảm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đi đến thắng lợi cuối cùng. 

Chú thích:
1, 4. Phan Xuân Sơn (2002). Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ cơ sở hiện nay. H.NXB Chính trị quốc gia, tr. 7, 27.
2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977). Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. H. NXB Sự thật, tr. 51, 52.
5. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V) trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-vi/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-v-trinh-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vi-cua-1491
6. Sự phát triển lý luận của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới. https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/823739/su-phat-trien-ly-luan-cua-dang-ve-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-trong-tien-trinh-doi-moi.aspx
7. Nghị quyết số 03-NQ/HNTW ngày 18/6/1997 Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phát huy quyền làm chủ của Nhân dântiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh.
8. Nhớ lẽ khoan dân (kỳ I). https://baothaibinh.com.vn/tin-tuc/0/72101/nho-le-khoan-dan-ky-i
9, 10. Ngỡ ngàng về lại “điểm nóng” Thái Bình sau 19 năm. https://www.baogiaothong.vn/ngo-ngang-ve-lai-diem-nong-thai-binh-sau-19-nam-192143434.htm.
11. Bản trình bày của đoàn Chủ tịch về ý kiến thảo luận của các đại biểu đối với các văn kiện Đại hội X của Đảng. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-x/ban-trinh-bay-cua-doan-chu-tich-ve-y-kien-thao-luan-cua-cac-dai-bieu-doi-voi-cac-van-kien-dai-hoi-x-cua-1534
12. Diễn văn Bế mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-x/dien-van-be-mac-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-x-cua-dang-1531
13, 14, 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H.NXB Chính trị quốc giatr. 169, 169, 170.
16, 17, 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 71, 96, 173.
19. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 1. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 284.