Mai Xuân Trường
Phó Giám đốc Sở Nội vụ Hà Nội
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết nghiên cứu về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước và viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập, ngân sách nhà nước bảo đảm 100% thuộc thành phố Hà Nội thông qua triển khai chi thu nhập tăng thêm theo Điều 15 Luật Thủ đô năm 2014. Qua phân tích thực trạng, đánh giá, bài viết đề xuất phương án triển khai chi thu nhập tăng thêm để khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức Thủ đô Hà Nội nâng cao năng lực, hiệu quả công việc, đóng góp phát triển kinh tế – xã hội của Thủ đô.
Từ khóa: Cán bộ, công chức; viên chức; thu nhập tăng thêm; thành phố Hà Nội.
1. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, diện mạo Thủ đô đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Kinh tế – xã hội của Hà Nội ngày một phát triển. Thu ngân sách năm 2023 tăng 20% so với năm trước, vượt 13,5% dự toán. Thành phố đã chủ động chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi thường xuyên và thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, ngoài ra, thành phố còn chi hỗ trợ các địa phương bạn và dự phòng thực hiện các chương trình, mục tiêu khác.
Đóng góp vào sự phát triển chung của Thủ đô, có công sức không nhỏ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng tại các cơ quan, đơn vị thuộc thành phố đã nỗ lực phấn đấu, mặc dù trong bối cảnh dân số ngày càng tăng, mức độ, tính chất công việc phức tạp gia tăng, công tác cải cách hành chính ngày càng yêu cầu rút ngắn thời gian giải quyết, tính chất phục vụ hành chính ngày càng cao,khối lượng công việc nhiều, dẫn đến một số vị trí việc làm quá tải. Tuy nhiên, mức lương bình quân của cán bộ, công chức, viên chức thành phố hiện nay còn thấp, việc điều chỉnh tăng mức lương cơ bản hằng năm chủ yếu chỉ để bù trượt giá, không đủ trang trải cho chi phí cuộc sống khá cao tại Thủ đô.
Do vậy, thành phố Hà Nội đã xây dựng chính sách chi thu nhập tăng thêm và đã được cụ thể hóa tại điểm a khoản 1 Điều 35 Luật Thủ đô, theo đó được dùng 0,8 quỹ lương cơ bản của cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi thành phố quản lý để chi thu nhập tăng thêm nhằm mục tiêu khuyến khích tăng năng suất lao động, hiệu quả công việc, bảo đảm đời sống sinh hoạt trên địa bàn Thủ đô, hiện có chỉ số giá tiêu dùng cao hơn các tỉnh, thành phố khác. Việc triển khai chi thu thập tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, đơn vị thuộc Thành phố từ ngày 01/01/2025 (Luật Thủ đô có hiệu lực) là rất cần thiết.
2. Thực trạng chính sách tiền lương và thu nhập tăng thêm đối với cán bộ, công chức, viên chức của thành phố Hà Nội
(1) Tình hình thực hiện chính sách tiền lương.
Hiện nay, tiền lương tối thiểu được Chính phủ quy định chung cho cả nước và điều chỉnh tăng hằng năm căn cứ điều kiện cân đối ngân sách. Ngày 30/6/2024, Chính phủ ban hành Nghị định số 73/2024/NĐ-CP quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền lương, theo đó thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở từ 1,8 triệu đồng lên 2,34 triệu đồng (tăng 30%) kể từ ngày 01/7/2024.
Hệ thống thang bảng lương, mức lương đối với cán bộ, công chức, viên chức hiện nay theo quy định tại Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, theo đó mức lương được quy định theo hệ số, chia ra rất nhiều bậc lương rất phức tạp, khoảng cách giữa các bậc về tiền lương rất nhỏ, chênh lệch mức lương giữa các bậc lương thấp, chưa phản ánh được giá trị cống hiến của từng cán bộ, công chức, viên chức, chưa có tác dụng tạo động lực lao động cho cán bộ, công chức, viên chức, khó thu hút được nhân tài.
Việc nâng bậc lương thường xuyên được thực hiện định kỳ 2 hoặc 3 năm một lần theo ngạch lương đang giữ. Việc nâng lương trước thời hạn được thực hiện hằng năm, theo đó cán bộ, công chức, viên chức được nâng bậc lương trước thời hạn 6 tháng, 9 tháng hoặc 12 tháng căn cứ vào thành tích đạt được theo quy định; tuy nhiên, tổng số người được nâng lương thành tích hàng năm ít, không quá 10% tổng số người trong danh sách trả lương của cơ quan, đơn vị; khoảng cách giữa các bậc về tiền lương rất nhỏ nên sự chênh lệch mức lương giữa các bậc không đáng kể.
Hiện nay, thành phố đã quan tâm, thường xuyên tổ chức các kỳ thi nâng ngạch công chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức, tạo điều kiện để những người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định được bổ nhiệm và xếp lương theo ngạch, chức danh nghề nghiệp cao hơn, góp phần động viên, khích lệ cán bộ, công chức, viên chức. Tuy nhiên, đối tượng đủ điều kiện, tiêu chuẩn để thi nâng ngạch công chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức chủ yếu là người có thâm niên công tác, do vậy, mức lương sau khi được nâng ngạch, thăng hạng cũng tăng không đáng kể so với những cống hiến của cán bộ, công chức, viên chức.
Nhà nước ban hành các chế độ phụ cấp lương, gồm: phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp chức vụ, phụ cấp kiêm nhiệm các chức danh lãnh đạo, phụ cấp khu vực, độc hại, phụ cấp thâm niên nghề, phụ cấp công vụ, phụ cấp ưu đãi ngành… đã góp phần bù đắp hao phí sức lao động mà tiền lương ngạch, bậc chưa tính đến, có tác dụng phần nào khuyến khích, thu hút lao động đối với một số ngành nghề đặc thù. Tuy nhiên, chế độ phụ cấp không đủ bù đắp hao phí sức lao động tăng thêm của cán bộ, công chức, viên chức.
(2) Tình hình thu nhập tăng thêm của cán bộ, công chức, viên chức.
Đối với cán bộ, công chức tại các cơ quan hành chính. Đến nay, thành phố đã trải qua 19 năm thực hiện giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ quan hành chính trong việc sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính theo quy định tại các nghị định của Chính phủ, như: Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước và Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ngày 07/10/2013 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP. Việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan hành chính đã thể hiện hiệu quả trong việc cải cách bộ máy hành chính nhà nước thành phố nhằm thúc đẩy hoạt động của các cơ quan gắn với nhu cầu xã hội, bảo đảm chất lượng, hiệu quả. Tình hình chi thu nhập tăng thêm tại các cơ quan hành chính được trích từ khoản chi thường xuyên của cơ quan, đơn vị để chi cho công tác khen thưởng, lễ tết… cho cán bộ, công chức, viên chức.
Luật Thủ đô năm 2024 có quy định, cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội và đơn vị sự nghiệp công lập được ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên thuộc Thành phố quản lý được hưởng thu nhập tăng thêm căn cứ theo năng lực, hiệu quả công việc.
Đối với viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập do Nhà nước bảo đảm chi toàn bộ và bảo đảm một phần chi thường xuyên. Thành phố đã trải qua 18 năm thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với các đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập (thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006) và Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập (thay thế Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015).
Theo quy định tại các nghị định nêu trên, mức trả thu nhập tăng thêm cụ thể là:
Thứ nhất, đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên, quy định thu nhập tăng thêm tối đa không quá 2 lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ.
Thứ hai, đối với đơn vị do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên, mức chi trả thu nhập tăng thêm tối đa không quá 1 lần quỹ tiền lương cấp bậc, chức vụ.
Việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đã tăng cường trách nhiệm và quyền hạn cho thủ trưởng đơn vị trong việc quyết định đối với nguồn kinh phí được giao.
Các đơn vị căn cứ nguồn tài chính đã chủ động xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ để tăng cường quản lý nội bộ, từ đó nâng cao tinh thần trách nhiệm của công chức, viên chức trong việc sử dụng kinh phí, chống tiêu cực, lãng phí nhằm tiết kiệm kinh phí để tăng thu nhập cho công chức, viên chức tại đơn vị.
3. Đánh giá chung về tình hình thực hiện chính sách tiền lương và thu nhập tăng thêm của cán bộ, công chức, viên chức
Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã nhiều lần cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức trong tổng thể cải cách chính sách tiền lương quốc gia. Tiền lương và thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức có xu hướng tăng, bước đầu phát huy vai trò đòn bẩy của tiền lương đối với tăng năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả làm việc tốt hơn và từng bước ổn định, có phần cải thiện đời sống cán bộ, công chức, viên chức.
Tiền lương tối thiểu chung (tiền lương cơ sở) áp dụng cho cán bộ, công chức, viên chức được xác định theo hướng tiếp cận dần mức sống tối thiểu, luôn điều chỉnh để bù đắp theo chỉ số giá sinh hoạt và mức tăng trưởng kinh tế, đã chia sẻ một phần gánh nặng trong chi tiêu hàng ngày của cán bộ, công chức, viên chức.
Hệ thống phụ cấp lương tương đối hoàn chỉnh với nhiều loại phụ cấp khác nhau theo yếu tố về điều kiện lao động, tính chất phức tạp đặc biệt của công việc, điều kiện sinh hoạt khó khăn và mức độ thu hút lao động vào các ngành, nghề, vùng, miền… góp phần bù đắp đáng kể tiền lương cho cán bộ, công chức, viên chức.
Quy định cơ chế tự chủ tài chính áp dụng trong các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập có ý nghĩa rất quan trọng. Trong các năm qua, thực hiện cơ chế tự chủ tài chính theo quy định tại Nghị định số 130/2005/NĐ-CP, Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, Nghị định số 117/2013/NĐ-CP, Nghị định số 60/2021/NĐ-CP đã tăng tính chủ động cho thủ trưởng các cơ quan, đơn vị của thành phố trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Đồng thời, các cơ quan, đơn vị đã thực hiện tốt chủ trương giảm chi, tăng tiết kiệm để có thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức.
Tuy nhiên, chính sách tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động hiện nay đã từng bước nâng lên nhưng chưa bảo đảm, đáp ứng nhu cầu cuộc sống. Mức lương tối thiểu mặc dù đã tăng lên 30% từ ngày 01/7/2024 nhưng vẫn còn khá thấp; hệ thống thang, bảng lương, mức lương đối với cán bộ, công chức, viên chức theo hệ số, chia ra rất nhiều bậc lương rất phức tạp, khoảng cách giữa các bậc về tiền lương rất nhỏ; chế độ nâng ngạch, bậc, xếp lương chưa gắn với trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, chức vụ; thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức tăng lên theo các chu kỳ nhất định chủ yếu dựa vào thâm niên công tác nên chưa tạo động lực thúc đẩy cán bộ, công chức, viên chức phấn đấu đạt hiệu quả cao trong công tác.
Tại Thành phố, chi phí sinh hoạt khá cao nên với mức lương tối thiểu, cơ chế nâng ngạch bậc và chu kỳ tăng lương như hiện nay chưa thể đảm bảo được cuộc sống của cán bộ, cônức, viên chức và người lao động. Do đó, chưa tạo được động lực để thu hút nhiều lao động có năng lực, cũng như chưa khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức phấn đấu đạt hiệu quả cao trong công việc.
Mức thu nhập tăng thêm ở hầu hết các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập còn rất thấp mặc dù các đơn vị đã thực hiện tốt chủ trương “giảm chi, tăng tiết kiệm”.
Những bất cập trong chính sách tiền lương hiện nay dẫn đến tình trạng tiền lương không bảo đảm được mức sống cơ bản cho cán bộ, công chức, viên chức; từ đó sẽ dẫn đến hệ lụy không mong muốn là nhiều cán bộ, công chức, viên chức phải tìm nguồn khác ngoài lương để bù đắp phần thiếu hụt ảnh hưởng đến chất lượng lãnh đạo, quản lý, thực thi công vụ, cung cấp dịch vụ công dẫn đến tiêu cực, tham nhũng.
4. Phương án chi thu nhập tăng thêm tại các cơ quan, đơn vị
(1) Phương án chi
Căn cứ kinh phí được phân bổ để chi thu nhập tăng thêm, các cơ quan, đơn vị thực hiện chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức, (lao động hợp đồng) theo phương án sau:
– Dành 50% kinh phí được cấp để chi thu nhập tăng thêm chi cho tất cả cán bộ, công chức, viên chức, (lao động hợp đồng) thuộc đối tượng được hưởng có kết quả đánh giá xếp loại trong tháng đạt từ hoàn thành nhiệm vụ trở lên.
– Dành 50% kinh phí được cấp để chi thu nhập tăng thêm còn lại chi cho cán bộ, công chức, viên chức, (lao động hợp đồng) được đánh giá xếp loại hoàn thành xuất sắc và hoàn thành tốt nhiệm vụ, mức chi theo hệ số: hoàn thành tốt nhiệm vụ: hệ số 1; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: hệ số 2.
(2) Đánh giá tác động
– Đây là phương án sử dụng kết quả đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức, viên chức, (lao động hợp đồng) hằng tháng theo quy định của Thành ủy Hà Nội đã thực hiện đồng bộ trong các cơ quan, tổ chức theo các năm gần đây đã đem lại hiệu quả tích cực, phù hợp với thực tế, dễ áp dụng.
– Việc thực hiện chính sách nhằm tăng thu nhập, bảo đảm đời sống sinh hoạt cho cán bộ, công chức, viên chức, (lao động hợp đồng); phù hợp với chỉ số giá tiêu dùng trên địa bàn thành phố.
– Bảo đảm có động viên, khuyến khích cho tất cả cán bộ, công chức, viên chức, (lao động hợp đồng) cũng như những cá nhân có nỗ lực, cố gắng, hoàn thành tốt, xuất sắc nhiệm vụ được giao.
– Mức chi được tính bình quân bằng số tiền cụ thể dựa vào hiệu quả, kết quả công việc theo kết quả đánh giá xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ; không theo hệ số lương của từng cá nhân, không phân biệt thâm niên công tác, chức vụ, hệ số lương cao – thấp. Phương án này đáp ứng được tiêu chí quy định tại Luật Thủ đô về đối tượng được hưởng thu nhập tăng thêm căn cứ theo năng lực, hiệu quả công việc.
– Việc thực hiện phương án này phù hợp với thực trạng tổ chức bộ máy, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, (lao động hợp đồng) trong hệ thống chính trị, nhất là những bất cập, hạn chế trong chế độ công vụ, công chức do tồn tại lịch sử.
– Thực hiện phương án này tạo sự công bằng, khách quan trong cơ quan, đơn vị; tránh tư tưởng tiêu cực, dễ dẫn đến đơn thư, khiếu nại, gây mất đoàn kết nội bộ.
Tuy nhiên, trong quá trình t hực hiện phương án này cần rà soát, sửa đổi, điều chỉnh quy định đánh giá, xếp loại hàng tháng đối với cán bộ, công chức, viên chức, (lao động hợp đồng) trong hệ thống chính trị của thành phố, nhất là tiêu chí đánh giá và thẩm quyền đánh giá. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải chỉ đạo sát sao công tác đánh giá xếp loại bảo đảm công tâm, khách quan, đúng người, đúng việc, hiệu quả để tạo động lực, thúc đẩy tinh thần làm việc của cán bộ, công chức, viên chức, (lao động hợp đồng); nếu không thận trọng có thể dẫn đến mất đoàn kết trong nội bộ, hạn chế sự phát triển chung của cơ quan, đơn vị. Phương án này còn có sự cào bằng, bình quân trong chi thu nhập tăng thêm (dành 50% kinh phí được cấp chi thu nhập tăng thêm để chi cho toàn bộ cán bộ, công chức, viên chức và lao động hợp đồng thuộc đối tượng được hưởng có kết quả đánh giá xếp loại trong tháng đạt từ hoàn thành nhiệm vụ trở lên).
5. Giải pháp tiếp tục thực hiện
Thứ nhất, xác định tổng nguồn kinh phí thực hiện và thực hiện phân chia, phân bổ nguồn kinh phí phù hợp, hiệu quả.
Thứ hai, tập trung rà soát, phân cấp thẩm quyền đánh giá xếp loại đối với cán bộ, công chức, viên chức, (lao động hợp đồng) theo hướng thủ trưởng cơ quan, đơn vị là người cuối cùng quyết định kết quả đánh giá, xếp loại của từng cán bộ, công chức, viên chức, (lao động hợp đồng), làm cơ sở chi thu nhập tăng thêm.
Thứ ba, thường xuyên kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, biên chế, vị trí việc làm các cơ quan, đơn vị của thành phố bảo đảm tinh gọn, hiệu quả, rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm.
Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức, (lao động hợp đồng), xác định việc chi thu nhập tăng thêm là bước đột phá, tạo động lực để cá nhân tiếp tục nỗ lực phấn đấu để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công việc được giao.
Thứ năm, thực hiện công tác thanh, kiểm tra, theo dõi, giám sát kết quả thực hiện của các cơ quan, đơn vị; định kỳ sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, điều chỉnh kịp thời.
6. Kết luận
Trong bối cảnh, thực tiễn hoạt động tình trạng thiếu biên chế, nhiều vị trí bị quá tải do khối lượng công việc, dân số tăng, tính chất phức tạp tăng, yêu cầu cải cách hành chính rút ngắn thời gian giải quyết công việc, hồ sơ thủ tục hành chính. Với sự nỗ lực không ngừng, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thuộc thành phố đã hoàn thành tốt nhiệm vụ và đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế – xã hội của thành phố.
Với mục tiêu xây dựng Thủ đô Hà Nội thành trung tâm đầu não chính trị – hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước; tiếp tục chủ động, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 15/-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là Thành phố “Văn hiến – Văn minh – Hiện đại” thì rất cần có sự đóng góp, cống hiến hơn nữa của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan, đơn vị, địa phương thuộc thành phố. Do đó, việc chi thu nhập tăng thêm cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, đơn vị thuộc thành phố là rất cần thiết, đáp ứng mức chi phí sinh hoạt tại Thủ đô, góp phần động viên, khuyến khích đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thành phố nâng cao hơn nữa hiệu quả công việc, đóng góp vào sự phát triển chung của thành phố.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2018). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp.
2. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 05/5/2022 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
3. Chính phủ (2016). Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ngân sách nhà nước.
4. Chính phủ (2020). Nghị định số 90/2020/NĐ-CP ngày 13/8/2020 về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức.
5. Chính phủ (2023). Nghị định số 48/2023/NĐ-CP ngày 17/7/2023 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 90/2020/NĐ-CP.
6. Chính phủ (2021). Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 quy định về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.
7. Quốc hội (2015). Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
8. Quốc hội (2019). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019.
9. Quốc hội (2024). Luật Thủ đô năm 2024.
10. Quốc hội (2008). Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
11. Quốc hội (2010). Luật Viên chức năm 2010.
12. Quốc hội (2019). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019.
13. Quốc hội (2015). Luật Ngân sách nhà nước năm 2015.
14. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2024). Đề án xây dựng dự thảo Luật Thủ đô năm 2024.
15. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2024). Đề án xây dựng Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội về chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức thành phố Hà Nội.