TS. Bàn Tuấn Năng
Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền văn hóa Việt Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc. Cùng với xu thế hội nhập và phát triển, những luồng văn hóa khác nhau xâm nhập vào đời sống xã hội ở vùng dân tộc thiểu số, gây ảnh hưởng, tác động mạnh đến văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số, đáng chú ý là nguy cơ phai mờ, biến dạng bản sắc dân tộc. Do vậy, việc bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số là nhiệm vụ cấp thiết, có ý nghĩa chiến lược cần phải tiếp tục thực hiện thường xuyên và lâu dài.
Từ khoá: Chủ trương; chính sách; bảo tồn; phát huy; giá trị văn hóa truyền thống; dân tộc ít người; nâng cao hiệu quả; thực hiện chính sách.
1. Đặt vấn đề
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến phát triển, bảo tồn, gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số, trong đó có các dân tộc ít người. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Đoàn kết các dân tội có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trong và giúp nhau cùng tiến bộ”1.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm ưu tiên, phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi với quan điểm chỉ đạo xuyên suốt: các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Tuy nhiên, khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa vùng dân tộc thiểu số và miền núi với các khu vực khác trong cả nước đang ngày càng có xu hướng gia tăng cách biệt, vùng miền núi và dân tộc thiểu số đang còn những khó khăn, thách thức rất lớn, trong đó văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số đang đặt ra vấn đề cần giải quyết hài hoà giữa bảo tồn và phát triển, giữa kinh tế và văn hoá.
2. Kết quả thực hiện chính sách văn hóa đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong những năm qua
Qua nhiều năm thực hiện chính sách văn hóa đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu nhất định. Nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về văn hóa nói chung, văn hóa dân tộc thiểu số nói riêng được nâng lên một bước. Đời sống văn hóa cơ sở đã có bước phát triển, ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, đời sống văn hoá tuy còn thấp so với đô thị và đồng bằng nhưng đã có những cải thiện rõ rệt; Công tác giữ gìn, bảo tồn và phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc, đặc biệt là văn hóa của các dân tộc thiểu số có bước phát triển mới về quy mô cũng như chiều sâu. Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa đã góp phần quan trọng nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc. Nhiều dự án lớn về sưu tầm, tư liệu hóa di sản văn hóađược thực hiện; Việc xây dựng thể chế và thiết chế văn hóa đã chú ý đến những yêu cầu của thời kỳ mới. Các thiết chế văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo được tăng cường cơ sở vật chất, tổ chức và hoạt động bước đầu đã có sự đổi mới, phát huy được hiệu quả. Ở các làng, bản, buôn, phum, sóc, thôn… vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã được Nhà nước quan tâm hỗ trợ để xây dựng các Nhà văn hoá, Nhà Rông, Nhà Gươl văn hóa … làm nơi sinh hoạt, tổ chức các hoạt động văn hóa – văn nghệ và hội họp chung của cộng đồng; Công tác đào tạo đội ngũ những người hoạt động văn hóa, nghệ thuật vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa được chú trọng bước đầu; Một số di sản văn hoá của vùng đồng bào các dân tộc thiểu số được tôn vinh, đặc biệt Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên được Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO) công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại. Đã tăng cường giao lưu văn hóa qua các hoạt động mang tính chất vùng, miền góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc góp phần củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Bên cạnh những thành tựu đáng kể đã đạt được trong lĩnh vực văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thời gian qua cũng còn nhiều vấn đề cấp bách cần khắc phục, những nhu cầu bức thiết cần phải giải quyết. Đời sống kinh tế- xã hội của các dân tộc thiểu số rất ít người (dưới 5.000 người và dưới 10.000 người) đều rất khó khăn so với các dân tộc có số dân đông hơn. Trong đó, vấn đề đặc biệt cấp bách đặt ra là bản sắc văn hóa của các tộc người này bị mai một nhanh chóng, thậm chí có dân tộc (như người Ơ Đu) ít tìm được các nét văn hóa đặc trưng. Nhiều chính sách được thực hiện thông qua những dự án, đề án, và chương trình mục tiêu quốc gia còn chưa thể hiện rõ vai trò và tầm quan trọng của văn hóa/chính sách văn hóa đối với các chính sách cũng như biện pháp phát triển kinh tế – xã hội ở vùng các dân tộc thiểu số và đối với các dân tộc thiểu số, có sự chênh lệch về hưởng thụ văn hoá còn lớn. Ở nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng, kháng chiến trước đây, vùng biên giới, hải đảo, hoạt động văn hóa còn nghèo nàn, sự chênh lệch về hưởng thụ văn hoá so với thành thị còn lớn; đầu tư của Nhà nước cho bảo tồn văn hóa còn thấp và manh mún, đặc biệt đầu tư bảo tồn và phát triển văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Việc huy động các nguồn vốn đầu tư cho văn hóa rất hạn chế do chính sách khuyến khích chưa cụ thể hóa và thiết thực; vai trò của chủ thể, của người dân, của cộng đồng chưa được phát huy và đặt đúng vị trí trong việc lập kế hoạch, xây dựng dự án cũng như triển khai, tổ chức quản lý, giám sát các dự án từ cơ sở đối với các dự án nói chung và các chương trình, dự án về văn hóa, ảnh hưởng tới chất lượng việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số Việt Nam; đội ngũ cán bộ quản lý và làm công tác văn hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thiếu, yếu, nhất là đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực là người dân tộc thiểu số. Người có uy tín và các nghệ nhân người dân tộc thiểu số ngày càng ít dần.
Chính sách giáo dục còn chưa quan tâm đầy đủ và chưa có những chính sách, biện pháp hữu hiệu trong việc dạy và học chữ, học tiếng đối với học sinh các dân tộc thiểu số, mà đây chính là vấn đề cực kỳ quan trọng, then chốt trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa của mỗi dân tộc; di sản văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển.
Nhiều di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số chưa được nghiên cứu, đánh giá một cách bài bản khoa học. Nghệ thuật diễn xướng Then của các dân tộc Tày, Nùng, Thái; Kho sách cổ của dân tộc Dao…, hàng nghìn làng, bản, buôn… truyền thống với các giá trị văn hóa tiêu biểu của các dân tộc (kiến trúc, trang phục dân tộc, nghề truyền thống và các món ăn truyền thống, các làn điệu dân ca, dân vũ, lễ hội…) đang đứng trước nguy cơ biến mất theo xu hướng kiên cố hóa, hiện đại hóa hoặc do tác động mặt trái của cơ chế thị trường rất cần phải nhanh chóng được hướng dẫn, hỗ trợ để bảo tồn, phát huy trong cuộc sống đương đại.
Hệ thống các thiết chế và cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa nhìn chung vẫn ở tình trạng xuống cấp, chắp vá, thiếu đồng bộ và hiệu quả sử dụng còn thấp. Việc đưa văn hóa, văn nghệ đến phục vụ đồng bào các dân tộc tuy đã có cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Nhiều địa phương vùng cao, vùng sâu, vùng xa còn thiếu các sản phẩm văn hoá, nhất là các sản phẩm văn hóa có nội dung và hình thức phù hợp với trình độ và thị hiếu của đồng bào.
Những bất cập trên xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản và then chốt: nhận thức của các cấp, các ngành về vị trí, vai trò của việc bảo tồn, phát triển văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhiều lúc, nhiều nơi còn chưa đúng, chưa thật đầy đủ, chưa thống nhất cao; việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số đã được thể chế hoá, nhưng từ văn bản đến hiện thực vẫn còn nhiều khoảng cách mà nguyên nhân là thiếu sự tương thích giữa bảo vệ, giữ gìn với phát huy phát triển. Điều này có nguyên nhân sâu xa từ chỗ chưa có sự đồng thuận của những chủ thể văn hóa; đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số còn rất thiếu, trình độ không đồng đều, nhiều nơi còn rất yếu, không đáp ứng được yêu cầu công tác trong tình hình mới; nghiên cứu lý luận còn thiếu khả năng dự báo và định hướng; chưa làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến văn hóa, đặc biệt là văn hóacác dân tộc thiểu số trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong việc xác định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng, trong việc xử lý các mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, bảo tồn và phát triển, văn hóa và kinh tế… còn lúng túng.
Xu hướng tất yếu trong thời gian tới là các quốc gia ngày càng đề cao tính đặc thù, bản sắc văn hoá dân tộc, coi trọng việc giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa, đấu tranh chống khuynh hướng đồng hóa về văn hóa; đồng thời chọn lọc tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hoá của nhân loại. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu, khách quan, vừa là quá trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia. Bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề trọng đại, sống còn của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, văn hóa là một lĩnh vực dễ bị tổn thương, trong đó bản sắc văn hóa, văn hóa truyền thống dễ bị tổn thương hơn cả, đặc biệt là văn hóa các dân tộc thiểu số. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóanhân loại sẽ làm phong phú cho văn hóa đất nước, thúc đẩy văn hóa phát triển.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng, trước những đòi hỏi của thực tế, yêu cầu của xu hướng phát triển, trên cơ sở kế thừa, tích lũy những bài học về bảo tồn, phát triển văn hóa dân tộc thiểu số giai đoạn trước, ngày 27/7/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1270/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”. Đề án có đối tượng là các dân tộc thiểu số Việt Nam, tập trung ưu tiên cho phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số rất ít người, các dân tộc không có điều kiện tự bảo vệ và phát huy di sản văn hóa của dân tộc mình. Với địa bàn miềnnúi, dân tộc thiểu số, ưu tiên cho vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo; những vùng phải di dời để phát triển kinh tế; vùng có nguy cơ cao bị mai một bản sắc văn hóa; vùng dân tộc trọng điểm (Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ). Địa bàn các dân tộc thiểu số có nguy cơ bị biến dạng văn hóa sẽ được đặc biệt chú trọng.
Đề án đã xác định các nhiệm vụ trọng tâm: bảo tồn khẩn cấp văn hóa các dân tộc thiểu số rất ít người (có số dân dưới 10.000 người), các dân tộc thiểu số tại các khu vực tái định cư dự án thủy điện liên thông, kết nối toàn diện với các chương trình, dự án có liên quan; Xây dựng đời sống văn hoá và môi trường văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Gắn kết chặt chẽ những hoạt động xây dựng đời sống văn hóa với nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội phù hợp với từng khu vực, từng vùng, từng dân tộc, tôn giáo; chủ thể văn hóa, cộng đồng kế thừa và thực hành văn hóa có một vai trò to lớn và là nhân tố quyết định trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số; coi trọng và tổ chức thực hiện các chương trình về bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp và xây dựng, phát triển những giá trị mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật, đặc biệt là hỗ trợ sự phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc thiểu số; ưu tiên đầu tư cho việc giữ gìn và phát huy các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống các dân tộc thiểu số, sưu tầm, phục hồi và phát triển một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ thất truyền; đẩy mạnh các hoạt động bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóacác dân tộc thiểu số kết hợp với các chương trình phát triển kinh tế, phát triển nghề thủ công truyền thống, du lịch cộng đồng kết hợp với xóa đói, giảm nghèo; phát triển và hiện đại hóa mạng lưới thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng các sản phẩm văn hóa, thông tin phù hợp.
Đẩy mạnh và phát huy hiệu quả công cụ phát thanh, truyền hình phù hợp vùng đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng đồng bộ và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa cộng đồng, thực sự phát huy vai trò của cộng đồng trong tổ chức các hoạt động cộng đồng, phát huy hiệu quả thực sự của các thiết chế văn hóa; tăng cường các hoạt động giao lưu văn hóa cấp địa phương, vùng, miền và toàn quốc; xây dựng các chính sách khuyến khích hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam; hoàn thiện hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa; đặc biệt là ban hành Bộ chỉ số về phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Đề án đã tập trung vào các nhiệm vụ: xây dựng Bộ chỉ số phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020; tổng kiểm kê các di sản văn hoá tiêu biểu của các dân tộc thiểu số. Hỗ trợ bảo tồn khẩn cấp văn hóa các dân tộc thiểu số có số dân rất ít người (dưới 5.000 người); ưu tiên đào tạo đội ngũ cán bộ là con em người dân tộc thiểu số làm công tác văn hóa; hỗ trợ truyền dạy và phát huy các giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống dân tộc của cộng đồng, nghệ nhân, từng bước phát huy hiệu quả sử dụng hệ thống các thiết chế văn hóa cơ sở, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa cho đồng bào các dân tộc thiểu số; bước đầu đưa giáo dục văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số vào các trường học trên địa bàn; xây dựng cơ chế, chính sách và giải pháp nâng cao hưởng thụ và hoạt động văn hóa của Nhân dân vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số.
Tiếp đó là Quyết định số 2493/QĐ-TTg ngày 22/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án Kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền di sản văn hóa truyền thống điển hình của các dân tộc thiểu số Việt Nam giai đoạn 2017 – 2020, hướng tới mục tiêu huy động nguồn lực của toàn xã hội cùng tham gia gìn giữ, bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc; tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và ý thức bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa của toàn xã hội, các chủ thể văn hóa và tổ chức, cá nhân có liên quan. Đến ngày 30/6/2017, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 936/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa giai đoạn 2016 – 2020, trong đó có mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa đặc sắc của dân tộc; phát triển các công trình văn hóa hiện đại, có ý nghĩa biểu tượng quốc gia, ý nghĩa chính trị, lịch sử, truyền thống đặc sắc hướng tới mục tiêu chiến lược xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc… Ngoài ra, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành các quyết định, như: Quyết định số 4686/QĐ-BVHTTDL ngày31/12/2013 về phê duyệt Đề án tổ chức định kỳ “Ngày hội, giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch vùng đồng bào các dân tộc thiểu số” theo khu vực và toàn quốc giai đoạn 2013 – 2020; Quyết định số 3965/QĐ-BVHTTDL, ngày 16/11/2015 về việc phê duyệt Dự án “Chương trình hoạt động, lễ hội và biểu diễn văn hóa nghệ thuật các dân tộc cấp tỉnh, vùng và quốc gia giai đoạn 2015 – 2020” (thuộc Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020” theo Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ)”… Trên cơ sở đó, nhiều hoạt động giao lưu văn hóa được diễn ra trên phạm vi cả nước, từng vùng, từng địa phương, từng dân tộc, như giao lưu văn hóa các dân tộc tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam như: ngày hội văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc, Tây Bắc, miền Trung và miền Đông Nam Bộ, ngày hội văn hóa dân tộc Mông, Chăm, Khmer, Mường, Dao, Hoa, Thái…; liên hoan nghệ thuật hát then, đàn tính các dân tộc Tày, Nùng, Thái…. Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá di sản văn hóa truyền thống điển hình của các dân tộc thiểu số Việt Nam được nâng cao. Các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng được lập hồ sơ khoa học, xếp hạng cấp quốc gia và quốc gia đặc biệt. Việt Nam đã có nhiều di sản được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, như: Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (năm 2008); thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam (năm 2019); nghệ thuật Xòe Thái (năm 2022)… Đến ngày 18/1/2019, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 209/QĐ-BVHTTDL về việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” với mục tiêu bảo tồn và phát huy trang phục truyền thống của các dân tộc thiểu số, khơi dậy lòng tự hào đối với văn hóa và trang phục truyền thống các dân tộc, hình thành ý thức, động lực để chính các chủ thể văn hóa, các cấp chính quyền địa phương có ý thức bảo tồn, phát huy và sử dụng trang phục truyền thống phổ biến hơn trong cuộc sống2.
3. Khuyến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc ít người ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, nâng cao chất lượng, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong việc thực hiện các chương trình, chính sách văn hóa nói chung và đối với văn hóa các dân tộc nói riêng.
Thứ hai, đổi mới chính sách và tăng cường đầu tư các nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội miền núi, giúp đỡ đồng bào dân tộc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống và dân trí – tạo tiền để bền vững, cơ bản để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc.
Thứ ba, tiếp tục quan triệt và tổ chức thực hiện hiệu quả Đề án, dự án, chương trình về bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số trong thời gian tới.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của đồng bào các dân tộc trong việc kết hợp giữa nội lực của đồng bào với sự đầu tư của Nhà nước, sự giúp đỡ, hỗ trợ của các cá nhân, tập thể, các tổ chức quốc tế nhằm tạo sức mạnh tổng hợp bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc.
Thứ năm, chính quyền địa phương các cấp cần tham mưu, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể sát với tình hình, điều kiện thực tế của địa phương. Trong đó, tập trung vào việc duy trì các lễ hội văn hóa truyền thống đúng hướng, lành mạnh, từng bước cải thiện nâng cao mức hưởng thụ, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân, trong đó chú trọng đến đồng bào các dân tộc thiểu số. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/06/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI)về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế quốc tế hiện nay.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị Quốc gia, 2011, tr. 244.
2. Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá các dân tộc thiểu số ở Việt Nam,. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/828114/chinh-sach-bao-ton-va-phat-huy-gia-tri-van-hoa-cac-dan-toc-thieu-so-o-viet-nam.aspx
Tài liệu tham khảo:
1. Trịnh Quang Cảnh, Nguyễn Duy Dũng (2022). Bảo tồn và phát triển một số dân tộc rất ít người ở Việt Nam (Si La, Pu Péo, Rơ măm, Brâu và Ơ Đu). H. NXB Công an nhân dân.
2. Phan Văn Hùng (2007). Dân tộc Rơ măm truyền thống và phát triển. H. NXB Lý luận Chính trị.
3. Bùi Thị Bích Lan (2021). Một số vấn đề về phát triển kinh tế – xã hội và bảo tồn văn hóa truyền thống các dân tộc rất ít người ở Việt Nam hiện nay. H. NXB Văn hóa Dân tộc.
4. Thủ tướng Chính phủ (2011). Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 về phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2014). Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.