Nguyễn Đăng Lộc
Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Kiểm sát việc bảo đảm quyền con người khi áp dụng biện pháp tạm giam là một chủ đề quan trọng, giao thoa giữa các yếu tố pháp lý, đạo đức và quyền con người. Bài viết sẽ khám phá sự cân bằng giữa việc bảo đảm an toàn công cộng và bảo vệ quyền lợi của cá nhân bị tạm giam.
Từ khóa: Quyền con người; biện pháp tạm giam; bảo đảm; biện pháp; kiểm sát.
1. Quan niệm về quyền con người của người bị tạm giam
Trên thế giới, tại Công ước châu Âu – Hiệp ước duy nhất liệt kê cụ thể quyền cơ bản của người bị buộc tội theo Điều 6.3, như: được thông báo kịp thời về lý do bị buộc tội (Điều 6.3a); được tạo điều kiện thuận lợi về khoảng thời gian thích hợp để chuẩn bị cho việc bào chữa (Điều 6.3b); được quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, trong trường hợp thực sự cần thiết mà người bị buộc tội không có khả năng tài chính để lựa chọn người bào chữa thì họ sẽ được giúp đỡ miễn phí (Điều 6.3c)1,…
Với chế định nhân quyền đó, Việt Nam đã nội luật hóa quy định của pháp luật quốc tế về quyền con người không bị bắt, giam giữ tuỳ tiện thông qua các văn bản quy phạm pháp luật.
Một trong năm nhiệm vụ trọng tâm công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự năm 2023 tại Hướng dẫn số 03/HD-VKSTC của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao về công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự năm 2023 ngày 03/01/2023 quy định rằng: “tập trung kiểm sát nhằm bảo vệ quyền của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, người chấp hành án, nhất là quyền con người; bảo đảm hoạt động giam, giữ, bắt buộc chữa bệnh và thi hành án hình sự đúng pháp luật. Xác định nguyên nhân, trách nhiệm để đề ra biện pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa vi phạm, tội phạm xảy ra trong lĩnh vực này”2.
Khoản 1, Điều 31 của Hiến pháp năm 2013 quy định “1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”3. Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ nguyên tắc suy đoán vô tội. Người chỉ bị coi là có tội khi được chứng minh theo quy trình pháp luật và có bản án kết tội của tòa án có hiệu lực. Người bị tạm giam chưa bị coi là có tội mà chỉ là nghi phạm. Nếu không chứng minh được tội, cơ quan tố tụng phải trả tự do cho họ. Do đó, người bị tạm giam vẫn là công dân bình thường, chỉ khác là họ bị cưỡng chế dưới sự quản lý của Nhà nước.
Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Người bị tạm giam là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bao gồm: bị can; bị cáo; người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án; người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ4.
Mục đích của công tác kiểm sát được quy định tại khoản 2 Điều 4 Quyết định số 259/QĐ-VKSNDTC ngày 20/7/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao về việc ban hành quy chế công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự; hệ thống biểu mẫu nghiệp vụ và hướng dẫn về thẩm quyền ký văn bản thuộc hệ thống biểu mẫu nghiệp vụ về công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự (Quyết định 259) như sau: “Quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, người chấp hành án, người chấp hành biện pháp tư pháp không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ; bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh”5.
Nguyên tắc quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam tại Điều 4 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 đã có hai lần nhắc lại về việc phải bảo đảm thực hiện quyền con người. Tiếp đó tại Điều 9 Luật này đưa ra các quyền mà người tạm bị tạm giam có thể thực: quyền được biết lý do tạm giam; quyền được đối xử nhân đạo (người bị tạm giam phải được đối xử nhân đạo, không bị tra tấn, bạo lực hay bất kỳ hình thức đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo hoặc hạ nhục nào); quyền được bảo vệ sức khỏe (người bị tạm giam có quyền được chăm sóc sức khỏe, bao gồm việc tiếp cận dịch vụ y tế khi cần thiết); quyền được liên lạc với luật sư, gia đình; quyền bầu cử, bỏ phiếu trưng cầu ý dân… Tuy nhiên, cũng có những hạn chế về quyền nhất định. Điều 19 Luật này thì người bị tạm giam bị hạn chế đi lại, giao dịch, tiếp xúc, thông tin, liên lạc, tuyên truyền tín ngưỡng, tôn giáo. Nếu trong trường hợp cần thiết thực hiện giao dịch dân sự thì phải thông qua người đại diện hợp pháp và được sự đồng ý của cơ quan đang thụ lý vụ án.
Có thể thấy ở Việt Nam, quyền con người của người bị tạm giam được bảo vệ bởi Hiến pháp và các quy định pháp luật cụ thể.
2. Vai trò của Viện Kiểm sát trong kiểm sát quyền con người của người bị tạm giam
Vai trò của Viện Kiểm sát trong việc kiểm sát quyền con người của người bị tạm giam là vô cùng quan trọng. Họ không chỉ bảo vệ các quyền cơ bản của người bị tạm giam mà còn góp phần đảm bảo tính công bằng, minh bạch và hiệu quả của hệ thống pháp luật. Tại Điều 9 Quyết định 259/QĐ-VKSNDTC đã cụ thể hóa vai trò của Viện kiểm sát trong việc bảo đảm quyền và các chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam bảo đảm người bị tạm giam thực hiện quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác, không bị tra tấn, truy bức,… đặc biệt chú ý chế độ với người bị tạm giam là các đối tượng đặc biệt như người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Giai đoạn khởi tố, điều tra là những giai đoạn dễ xâm phạm đến quyền con người nhất nên Viện kiểm sát với trách nhiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật càng trở nên quan trọng hơn, việc sử dụng những quyền năng vốn có của mình dù độc lập nhưng phải có căn cứ, đúng pháp luật. Đối với công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, Viện kiểm sát thực hiện ngay từ giai đoạn bắt đầu của quá trình tố tụng, kể từ khi phát sinh việc tạm giữ, tạm giam đến khi kết thúc việc giam, giữ. Trách nhiệm của Viện kiểm sát phải bảo đảm bất cứ trường hợp nào bị tạm giữ, tạm giam đều có đủ hai yếu tố: đúng người, đúng hành vi và phải tuân theo đúng trình tự thủ tục của pháp luật. Việc tạm giữ, tạm giam phải tuân thủ các quy định của pháp luật; chế độ tạm giữ, tạm giam được bảo đảm; các quyền con người được tôn trọng và bảo vệ. Vai trò của Viện kiểm sát khi kiểm sát quyền con người với đối tượng bị tạm giam là vô cùng quan trọng, cụ thể như sau:
Một là, bảo vệ quyền con người. Qua kiểm sát giúp bảo đảm rằng quyền con người của người bị tạm giam được tôn trọng và bảo vệ theo đúng quy định pháp luật. Đồng thời, có thể nắm bắt tâm tư nguyện vọng của người bị tạm giam để có hướng xử lý kịp thời, nhanh chóng.
Hai là, bảo đảm công bằng và minh bạch. Kiểm sát giúp bảo đảm rằng quá trình tạm giam được thực hiện một cách công bằng và minh bạch, không có sự phân biệt đối xử hay bất kỳ hành vi không đúng đắn nào. Viện Kiểm sát thực hiện việc giám sát một cách độc lập, tuy nhiên, quá trình này cũng cần sự phối hợp chặt chẽ và linh hoạt với các cơ quan thực thi pháp luật như: Công an, Tòa án, các tổ chức y tế và các bên liên quan khác để bảo đảm rằng quyền con người của người bị tạm giam được bảo vệ tốt nhất có thể. Ngoài ra, công tác giám sát còn giúp phát hiện và ngăn chặn những vi phạm có thể xảy ra trong quá trình tạm giam, từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả của hệ thống tư pháp.
Ba là, cải thiện điều kiện giam giữ. Dựa trên các phát hiện từ quá trình kiểm sát, kiểm sát viên có thể đề xuất các biện pháp cải cách để nâng cao hiệu quả trong việc bảo vệ quyền con người của người bị tạm giam. Điều này có thể bao gồm việc cải thiện cơ sở hạ tầng như nâng cấp phòng giam, cung cấp đủ ánh sáng và thông gió, bảo đảm vệ sinh và tạo điều kiện sống tốt hơn cho người bị tạm giam. Bên cạnh đó, việc đào tạo cán bộ cũng rất quan trọng nhằm nâng cao kỹ năng và nhận thức về quyền con người cho những người thực thi nhiệm vụ. Cuối cùng, việc cập nhật và điều chỉnh các quy định pháp luật để phù hợp với thực tế và các tiêu chuẩn quốc tế cũng là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình cải thiện điều kiện giam giữ.
3. Một số nội dung kiểm sát bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giam
3.1. Kiểm sát chế độ ăn
Bảo đảm người bị tạm giam được cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, phù hợp với nhu cầu sức khỏe và tiêu chuẩn pháp luật. Phương pháp kiểm sát: (1) Kiểm tra thực đơn hàng ngày và định kỳ để bảo đảm đủ chất dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm (kiểm tra hồ sơ, tài liệu, sổ sách ghi chép xuất kho hằng ngày, bếp ăn; (2) Đối chiếu thực đơn với khẩu phần ăn thực tế của người bị tạm giam; (3) Hỏi người tạm giam về chế độ ăn; (4) Xem xét các khiếu nại về chế độ ăn uống của người bị tạm giam.
Chẳng hạn, kiểm sát chế độ ăn thực hiện tại bếp ăn sẽ bao gồm các công việc, như: kiểm sát sổ ghi chép, phản ánh việc tiếp nhận đồ ăn (thời gian, khối lượng, trọng lượng các loại hàng nhập, người nhập,…); kiểm sát việc niêm yết, công khai chế độ ăn tại thời điểm kiểm sát. Do đó, kiểm sát tại căng tin cũng là một công tác quan trọng cần kiểm sát chặt chẽ.
3.2. Kiểm sát chế độ ở
Bảo đảm người bị tạm giam được ở trong điều kiện an toàn, vệ sinh và nhân đạo. Phương pháp kiểm sát: (1) Kiểm tra cơ sở vật chất như phòng giam, giường, nệm, chăn màn; (2) Đánh giá điều kiện vệ sinh, thông gió và chiếu sáng của nơi giam giữ; (3) Thực hiện khảo sát và lắng nghe phản hồi từ người bị tạm giam về điều kiện ở.
3.3. Kiểm sát chế độ trang phục và tư trang
Bảo đảm người bị tạm giam được cung cấp đầy đủ trang phục và tư trang cá nhân cần thiết.Hình thức kiểm tra thực tế như hỏi người giam giữ, đọc sổ sách ghi chép hoặc dùng đồ dùng cần thiết. Kiểm sát viên đối chiếu với các quy định của pháp luật đã đúng chưa? Tư trang, đồ dùng cá nhân bảo đảm vệ sinh không?,… Nếu phát hiện vi phạm thì kiểm sát viên trực tiếp yêu cầu hoặc lãnh đạo Viện kiểm sát kiến nghị kháng nghị thủ trưởng của cơ sở giam giữ đó.
3.4. Kiểm sát chế độ gửi, nhận thư, sách báo và tài liệu của người bị tạm giam
Mọi thư từ, sách báo và tài liệu mà người bị tạm giam nhận được đều phải qua kiểm duyệt chặt chẽ để bảo đảm không có nội dung vi phạm pháp luật hoặc gây ảnh hưởng đến quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Người tạm giam chỉ được thực hiện quyền này khi được cho phép, và cũng có số lần giới hạn nhất định (không quá 3 lần/ tháng).
3.5. Kiểm sát chế độ y tế
Bảo đảm người bị tạm giam được chăm sóc y tế đầy đủ và kịp thời. Phương pháp kiểm sát: (1) Kiểm tra hồ sơ y tế và khám sức khỏe định kỳ cho người bị tạm giam; (2) Đánh giá điều kiện phòng bệnh, trang thiết bị y tế và thuốc men; (3) Bảo đảm có nhân viên y tế thường trực và xử lý kịp thời các trường hợp cấp cứu. Việc kiểm sát chế độ y tế còn có ý nghĩa trong việc phân loại, bố trí buồng giam phù hợp. Kiểm sát chế độ y tế không chỉ diễn ra trong quá trình người bị tạm giam ở tại trại/ buồng giam mà còn kiểm sát trước đó. Tại khoản 2 Điều 16 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 quy định việc khám sức khỏe, thân thể ngay khi tiếp nhận để làm cơ sở phân loại giam giữ, như: có bệnh truyền nhiễm, nguy hiểm gì không? Kiểm sát chế độ y tế là sự phối hợp giữa Viện kiểm sát và cơ sở y tế liên quan.
3.5. Kiểm sát chế độ giáo dục
Bảo đảm người bị tạm giam được tiếp cận các chương trình giáo dục, văn hóa và lao động cải tạo. Một trong những khía cạnh quan trọng trong kiểm sát quyền con người là công tác giáo dục, bao gồm: các hoạt động giáo dục pháp luật, giáo dục tư tưởng và các biện pháp cải tạo khác nhằm giúp người bị tạm giữ, tạm giam nhận thức rõ về hành vi phạm pháp của mình và khuyến khích họ cải thiện hành vi trong tương lai.
Phương pháp kiểm sát: (1) Kiểm tra chương trình giáo dục và hoạt động học tập của người bị tạm giam; (2) Đánh giá các hoạt động văn hóa, thể thao và giải trí trong cơ sở giam giữ thông qua việc hỏi, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của người bị tạm giam; (3) Giám sát việc tổ chức và thực hiện các chương trình lao động cải tạo.
Đối với những đối tượng đặc biệt như phụ nữ có thai, người dưới 18 tuổi thì chế độ này còn có những ưu tiên nhất định, thể hiện tinh thần nhân đạo, nhân văn. Phạm nhân chưa thành niên được giam giữ và lao động riêng biệt, phù hợp với sức khỏe, giới tính, độ tuổi và đặc điểm cá nhân, tránh các công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại. Điều này quyền con người đối với người bị tạm giam luôn được tôn trọng và bảo vệ.
Tất cả nội dung trên đều được cụ thể hóa tại Chương IV – Chương V Luật Thi hành tạm giam, tạm giữ năm 2015 (từ Điều 27 – 35); Điều 4 Nghị định số 120/2017/NĐ-CP ngày 06/11/2017 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thi hành tạm giam, tạm giữ (sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 113/2021/NĐ-CP); Nghị định số 133/2020/NĐ-CP ngày 09/11/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi hành án hình sự nhằm bảo đảm quyền lợi và điều kiện sống tối thiểu cho người bị tạm giam, đồng thời ngăn ngừa các hành vi vi phạm nhân quyền trong quá trình tạm giam.
4. Cải thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện kiểm sát nhằm bảo đảm quyền của người bị tạm giam
Thứ nhất, cải thiện quy định pháp luật, cần sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật để rõ ràng hơn về căn cứ áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam. Căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam theo Điều 119 Bộ Luật Tố tụng hình sự là “có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng”. Có thể ở đây mang tính không xác định, khá mơ hồ về việc trường hợp nào phải áp dụng; việc có căn cứ mà không áp dụng có vi phạm không? Vì “có thể” dường như mang hàm ý là không bắt buộc. Tiếp tục tại Điều 278, 329 Bộ Luật Tố tụng hình sự liên tục xuất hiện những cụm từ “xét thấy cần thiết”, “nếu thấy tiếp tục” mang tính chung chung, không rõ ràng; vì thế cũng tạo sự bối rối trong việc áp dụng của Cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án trong việc xem xét áp dụng, hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp tạm giam.
Trên thế giới, một trong những quan điểm tiến bộ về bảo vệ người tạm giam trong khu vực OSCE cũng đã nhấn mạnh rằng:“Mỗi lần từ chối thả tự do cho người tạm giam phải có lý do kèm theo lời giải thích”. Điều này đòi hỏi cơ quan chức năng phải tự đánh giá các bằng chứng được đưa ra và cần phải đưa ra quyết định hợp lý về vấn đề này, bao gồm cả lý do tại sao không thể sử dụng các biện pháp thay thế khi việc trả tự do bị từ chối.
Thứ hai, nâng cao nhận thức và kỹ năng của người tiến hành tố tụng thông qua việc tổ chức các khóa đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng cho các cán bộ trong các cơ quan tố tụng về quyền con người và các quy định pháp luật liên quan đến tạm giam; tuyên truyền, giáo dục về quyền con người cho cán bộ tố tụng, để họ nhận thức đúng đắn và đầy đủ về quyền của người bị tạm giam. Tăng cường đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ kiểm sát trong việc bảo vệ quyền con người là một nhiệm vụ cấp bách và cần thiết.
Việc tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ kiểm sát cần được chú trọng. Vì thực tế, nhiều cán bộ tạm giam vẫn chưa thực sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn về tầm quan trọng trong việc kiểm sát quyền con người. Các khóa đào tạo nên tập trung vào các tình huống thực tiễn, giúp cán bộ kiểm sát nắm vững quy định pháp luật, nâng cao kỹ năng phân tích, đánh giá và ra quyết định; đào tạo định kỳ, theo quý và thường xuyên.
Thứ ba, xây dựng cơ chế, trách nhiệm rõ ràng. Quy định rõ ràng trách nhiệm của từng cá nhân trong quá trình tố tụng, từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án. Áp dụng chế tài nghiêm minh đối với các cán bộ vi phạm quyền của người bị tạm giam, đồng thời khen thưởng kịp thời đối với những cá nhân thực hiện tốt. Xây dựng cơ chế giám sát chặt chẽ việc thực hiện biện pháp tạm giam từ các cơ quan điều tra. Các cơ quan chức năng cần phối hợp chặt chẽ với nhau để đảm bảo rằng các quyền con người của người bị tạm giam được bảo vệ tối đa.
Thứ tư, cải tiến cơ sở hạ tầng và trang thiết bị cho cán bộ kiểm sát tạm giam. Trang bị đầy đủ phương tiện kỹ thuật, đầu tư trang thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động kiểm tra, giám sát, bao gồm hệ thống camera giám sát ở các khu vực quan trọng để bảo đảm việc giám sát được thực hiện liên tục và không gián đoạn. Hệ thống này cần có khả năng ghi hình rõ nét, lưu trữ lâu dài và dễ dàng truy cập khi cần thiết. Hoặc các công cụ hỗ trợ thu thập chứng cứ như máy ghi âm, ghi hình
Thứ năm, số hóa và lưu trữ dữ liệu. Phát triển hệ thống quản lý, lưu trữ dữ liệu số hóa giúp dễ dàng truy xuất thông tin, tăng hiệu quả trong việc kiểm sát viện kiểm sát và tòa án.
Ngoài ra khuyến khích áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền nhằm giảm thiểu tình trạng lạm dụng tạm giam.
Bằng việc thực hiện các giải pháp trên, việc kiểm sát quyền của người bị tạm giam sẽ được nâng cao, bảo đảm tính minh bạch, công bằng và hiệu quả trong quá trình tố tụng, đồng thời bảo vệ quyền con người một cách tốt nhất.
Việc tạm giam bị can, bị cáo là một biện pháp ngăn chặn quan trọng trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án diễn ra thuận lợi. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật, bảo đảm sự phê chuẩn của Viện kiểm sát và cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố thực tiễn để tránh lạm dụng quyền lực và vi phạm quyền con người. Việc tạm giam không chỉ đơn thuần là biện pháp ngăn chặn mà còn liên quan trực tiếp đến quyền tự do cá nhân của người bị tạm giữ. Do đó, việc áp dụng biện pháp này phải dựa trên những căn cứ pháp lý rõ ràng và minh bạch. Đồng thời, cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét các biện pháp ngăn chặn thay thế trong những trường hợp không cần thiết phải tạm giam để bảo đảm quyền tự do của người bị khởi tố và bị cáo, đồng thời vẫn đạt được mục đích ngăn chặn hành vi phạm tội và việc lẩn trốn pháp luật.
Chú thích:
1. Công ước Châu Âu về nhân quyền. https://www.echr.coe.int/Documents/Convention_ENG.pdf.
2. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2023). Hướng dẫn số 03/HD-VKSTC ngày 02/02/2023 về công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự năm 2023.
3. Quốc hội (2023). Hiến pháp năm 2013.
4. Quốc hội (2015). Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
5. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2023). Quyết định số 259/QĐ-VKSNDTC ngày 20/7/2023 về việc ban hành quy chế công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự; hệ thống biểu mẫu nghiệp vụ và hướng dẫn về thẩm quyền ký văn bản thuộc hệ thống biểu mẫu nghiệp vụ về công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự.
Tài liệu tham khảo:
1. Vai trò, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. https://vkshanoi.gov.vn/chi-tiet-tin/vai-tro-nhiem-vu-cua-vien-ksnd-trong-viec-bao-ve-quyen-con-nguoi-trong-to-tung-h-15037.html, ngày 23/10/2020.
2. Lương Minh Thống, Bùi Trung Thành (2024). Kỹ năng trực tiếp kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ, trại tạm giam. Tạp chí kiểm sát số 06/2024, tr. 37.
3. Đại học Kiểm sát Hà Nội (2018). Giáo trình kiểm sát việc tạm giữ tạm giam và thi hành án hình sự. H. NXB. Chính trị quốc gia sự thật.
4. TS. Nguyễn Ngọc Kiện, Phạm Xuân Minh (2020). Bảo đảm quyền của người bị tạm giam theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 14 (414), tháng 7/2020.
5. Tổ chức An Ninh và Hợp tác châu Âu. Tạm giam trong khu vực OSCE. Hội nghị tổng kết 9/1999 (ODIHR 199/2).
6. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/07/25/nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-voi-viec-bao-dam-quyen-con-nguoi/, ngày 25/7/2024.
7. Quan điểm của Đảng về quyền con người: giá trị lý luận và thực tiễn. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/09/05/quan-diem-cua-dang-ve-quyen-con-nguoi-gia-tri-ly-luan-va-thuc-tien/, ngày 05/9/2024.