Lê Thế Vững
Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ
(Quanlynhanuoc.vn) – Chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh Bình Dương đã được cải thiện nhiều trong những năm qua. Tuy nhiên, tỷ lệ người lao động qua đào tạo của tỉnh vẫn còn tương đối thấp so với vùng Đông Nam Bộ và cả nước. Điều này dẫn tới một thực tế là thiếu nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Bài viết tập trung nêu thực trạng chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh và phân tích sự khác biệt về giới, giữa khu vực thành thị, nông thôn và phân bố nguồn nhân lực trong các ngành kinh tế trong thời đại mới.
Từ khóa: Chất lượng; nguồn nhân lực; số liệu; điều tra; lao động việc làm; Tổng cục Thống kê; tỉnh Bình Dương.
1. Đặt vấn đề
Bình Dương là tỉnh nằm trong khu vực Đông Nam Bộ, thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Sau gần 30 năm tái lập (1997 – 2024), Bình Dương đã trở thành một hình mẫu về thu hút đầu tư và tiến hành công nghiệp hóa, đô thị hóa. Với mục tiêu xây dựng tỉnh trở thành trung tâm công nghiệp hiện đại, đô thị thông minh của vùng Đông Nam Bộ và cả nước. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (4.0) vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng được chú trọng ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định đến việc đẩy nhanh tốc độ phát triển, hội nhập quốc tế, thu hút đầu tư và tăng lợi thế cạnh tranh. Chính vì vậy ngay từ năm 2011, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bình Dương đã ban hành Chương trình số 20-CTr/TU nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Bình Dương giai đoạn 2011 – 2015. Mục tiêu tổng quát của Chương trình là xây dựng đội ngũ công nhân kỹ thuật có tay nghề phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đáp ứng đủ lao động phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực, có số lượng, cơ cấu phù hợp với yêu cầu thực tiễn, chuyên nghiệp, hiện đại, có sự kế thừa giữa các thế hệ cán bộ. Chương trình đề ra một số chỉ tiêu cụ thể như phấn đấu đến năm 2015 nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề lên 70%; bảo đảm 100% cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm vào ngạch. Số lượng cán bộ, công chức, viên chức có trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm trên 70%, trong đó có 5% trình độ sau đại học. Đến năm 2016, Tỉnh ủy tiếp tục ban hành Chương trình số 20- CTr/TU nhằm nâng cao chất lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật và đội ngũ công nhân lao động, đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh trong giai đoạn mới. Mục tiêu xây dựng nguồn nhân lực với số lượng và cơ cấu ngành nghề hợp lý, phù hợp sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển dịch vụ – công nghiệp gắn với quá trình đô thị hóa của tỉnh, phấn đấu đến năm 2020 nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 80%1. Năm 2021, Tỉnh ủy ban hành Chương trình 19-CTr/TU về phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu xây dựng Bình Dương phát triển bền vững theo hướng đô thị thông minh, văn minh, hiện đại giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Mục tiêu tổng quát là xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu thúc đẩy mục tiêu của quốc gia về chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số, chính phủ điện tử; phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng ưu tiên phát triển dịch vụ và công nghiệp; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; tăng cơ hội việc làm có chất lượng cao, thu nhập cao cho người lao động; đưa nhân lực trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để phát triển bền vững kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Bình Dương phát triển theo hướng đô thị thông minh, văn minh, hiện đại. Mục tiêu đến năm 2025, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 85%, trong đó có văn bằng chứng chỉ là 35% (tăng trung bình 1%/năm)2.
Trong phạm vi nghiên cứu, bài viết sử dụng nguồn số liệu Điều tra lao động việc làm năm 2022 của Tổng cục Thống kê. Nguồn số liệu điều tra trên toàn quốc nhưng tác giả chỉ sử dụng dữ liệu tại tỉnh Bình Dương với 10.543 nhân khẩu, trong đó có 8.525 người trong độ tuổi lao động phân bố ở 9 đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã và thành phố3. Từ đó, tác giả tập trung phân tích thực trạng chất lượng nguồn nhân lực và sự khác biệt về giới tính, khu vực vùng thành thị – nông thôn trong bối cảnh kinh tế – xã hội của tỉnh Bình Dương.
2. Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực
Hiện nay, Bình Dương là địa phương có quy mô dân số tương đối lớn với 2823,4 nghìn người đứng thứ 3 ở vùng Đông Nam Bộ chỉ xếp sau TP. Hồ Chí Minh (9456,7 nghìn người) và Đồng Nai (3310,9 nghìn người), trong đó nữ 1357,0 nghìn người chiếm tỷ lệ 48,1%. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 1871,3 nghìn người, số người hiện đang có việc làm trong năm 2023 là 1845,3 nghìn người chiếm 65,35% so với tổng dân số của Bình Dương4 .
Bình Dương là một trong những thủ phủ của các khu công nghiệp ở vùng Đông Nam Bộ. Theo niên giám thống kê năm 2022 của tỉnh Bình Dương cho thấy, lao động ở trong tỉnh hiện đang làm việc tập trung chủ yếu ở ngành công nghiệp – xây dựng với tỷ trọng chiếm tới 68,22% và thương mại – dịch vụ là 28,25% ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm tỷ lệ rất nhỏ chỉ có 3,53%5.
Điều này cũng phù hợp với mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế trong những giai đoạn sắp tới của tỉnh Bình Dương. Cơ cấu lao động làm việc trong các ngành kinh tế có sự chuyển dịch tương ứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, đó là giảm tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp – xây dựng và dịch vụ.
Trong nghiên cứu của Lê Văn Đại cũng nhận định rằng “Nhìn chung, nguồn nhân lực Bình Dương trong những năm gần đây bước đầu đã có những thay đổi, đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực. Số lượng lao động trong độ tuổi lao động có hoạt động kinh tế thường xuyên tăng lên, tỷ lệ thất nghiệp giảm. Cơ cấu lao động dần dần dịch chuyển theo hướng giảm lao động nông nghiệp, tăng số lượng lao động ngành dịch vụ, du lịch, công nghiệp và xây dựng, cùng với sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế. Trình độ học vấn ngày càng được nâng cao, số người từ 15 tuổi trở lên đã tốt nghiệp tiểu học tăng, số lao động qua các lớp dạy nghề, đào tạo nghề tăng. Lực lượng cán bộ, công nhân viên nhà nước cũng được nâng cao về số lượng và chất lượng. Đội ngũ cán bộ có trình độ lý luận và trình độ chuyên môn sau đại học tăng nhanh”6.
So sánh với vùng Đông Nam Bộ và cả nước tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo của Bình Dương năm 2023 (23,5%) thấp hơn so với toàn vùng Đông Nam Bộ (29,0%) và toàn quốc (27,2%). Trong toàn vùng Đông Nam Bộ tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo của Bình Dương thấp hơn nhiều so với TP. Hồ Chí Minh (36,0%) và Bà Rịa – Vũng Tàu (28,8%)7. Điều này cho thấy, cơ cấu trình độ lao động đào tạo của Bình Dương hiện nay đang mất cân đối so với yêu cầu phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp theo các ngành nghề kinh tế khác nhau.

Mặc dù, có lực lượng lao động tương đối nhiều, tuy nhiên tỷ lệ lao động đã qua đào tạo lại khá khiêm tốn chỉ có 23,5% và có biến động lúc tăng lúc giảm trong 5 năm vừa qua, nhưng nhìn chung lại đều có tăng lên. Năm 2018, tỷ lệ lao động được đào tạo có tỷ lệ là 20,6%, năm 2019 tăng lên có tỷ lệ là 22,1%, năm 2020 giảm xuống còn 20,2%, năm 2021 lại tăng lên 21,6% và năm 2022 tỷ lệ tăng lên là 23,5% (biểu đồ 1).
So sánh theo góc độ giới giữa nam và nữ qua biểu đồ 1 cho thấy, tỷ lệ lực lượng lao động nữ đã được đào tạo qua các năm đều có tỷ lệ thấp hơn so với nam; chẳng hạn như: năm 2022, nữ được đào tạo là 18,8% thấp hơn nhiều so với nam là 27,8%. Mặc dù, trong 5 năm qua tỷ lệ nữ được đào tạo có xu hướng tăng lên (năm 2018 là 16,4% đến năm 2022 tăng lên 18,8%) nhưng mức độ tăng không nhiều chỉ tăng 2,2 điểm phần trăm. Trong khi đó, tỷ lệ nam đã qua đào tạo trong 5 năm qua đã tăng lên 3,5 điểm phần trăm nhanh hơn một chút so với nữ (biểu đồ 1).
Kết quả của đợt Điều tra lao động việc làm năm 2022 tại Bình Dương cũng cho thấy phần lớn lực lượng lao động không có chuyên môn kỹ thuật (không được đào tạo, dạy nghề) chiếm tới 83,9%, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo là tương đối thấp chỉ có 16,1% (trong đó trình độ chuyên môn sơ cấp là 7,0%, trung cấp là 2,1%, cao đẳng là 2,1% và đại học trở lên là 4,9%). So sánh theo giới tính cho thấy có sự khác biệt giữa 2 nhóm. Tỷ lệ lao động nữ không cho chuyên môn kỹ thuật là 88,4% cao hơn so với nhóm nam có tỷ lệ là 79,3%. Lực lượng lao động có trình độ chuyên kỹ thuật sơ cấp ở nhóm nam có tỷ lệ là 11,7% cao hơn nhiều so với nhóm nữ chỉ có tỷ lệ là 2,5%. Lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật bậc trung cấp ở nhóm nam là 2,4% cao hơn một chút so với nhóm nữ có tỷ lệ là 1,8%, tuy nhiên, lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật bậc cao đẳng ở nhóm nữ là 2,1% và bậc đại học trở lên là 5,2% lại cao hơn một chút so với nhóm nam có tỷ lệ lần lượt là 2,0% và 4,7% (bảng 1).
Bảng 1 : Chuyên môn kỹ thuật của nghề chính đang làm chia theo giới tính
Chuyên môn kỹ thuật (CMKT) | Giới tính | ||||||
Nam | Nữ | Tổng | |||||
N | % | N | % | N | % | ||
Không có CMKT | 3340 | 79,3 | 3811 | 88,4 | 7151 | 83,9 | |
Sơ cấp | 491 | 11,7 | 107 | 2,5 | 598 | 7,0 | |
Trung cấp | 101 | 2,4 | 78 | 1,8 | 179 | 2,1 | |
Cao đẳng | 86 | 2,0 | 92 | 2,1 | 178 | 2,1 | |
Đại học trở lên | 196 | 4,7 | 223 | 5,2 | 419 | 4,9 | |
Tổng | 4214 | 100,0 | 4311 | 100,0 | 8525 | 100,0 |
Qua phân tích ở trên cho thấy, lực lượng lao động đã qua đào tạo và có chuyên môn kỹ thuật ở tỉnh Bình Dương tương đối thấp. Nhìn chung, tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật (sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học trở lên) ở nhóm nam (22,8%) cao hơn nhiều so với nhóm nữ (14,5%). Có sự khác biệt này là do trong xã hội hiện nay vẫn còn những quan niệm khuôn mẫu định kiến giới chẳng hạn như “đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”, “thiên chức của phụ nữ là làm mẹ, làm vợ”, “đàn ông là trụ cột gia đình”, “phụ nữ giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “phụ nữ yếu đuối, dịu dàng”, “đàn ông mạnh mẽ, quyết đoán”, “nam giới giỏi kỹ thuật”, “nữ giới lái xe kém” hay “ con gái thì không cần học hành nhiều”… Chính những khuôn mẫu định kiến giới như vậy là rào cản cho nữ giới tham gia hội nhập vào quá trình phát triển xã hội cũng như tham gia vào hoạt động đào tạo, nâng cao chuyên môn kỹ thuật tay nghề.
“Lao động nữ chiếm số đông trong những ngành nghề không đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật cao, chủ yếu làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, cụ thể, năm 2019, lao động nữ làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm 36,1%, trong khi đó, chỉ có hơn 20,2% lao động nữ là lãnh đạo của các cấp, các ngành. Nguyên nhân chính là do lao động nữ chưa được quan tâm tạo điều kiện để học nghề, đào tạo nghề cũng như tham gia các hoạt động giáo dục, đào tạo để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Đặc biệt ở khu vực nông thôn và vùng dân tộc thiểu số, tỷ lệ lao động nữ không qua đào tạo chiếm tỷ lệ lớn trong việc không được tạo điều kiện để tham gia học nghề, đào tạo nghề, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ khiến cho lao động nữ khó có cơ hội tìm kiếm việc làm”9.
Mặt khác, phụ nữ ít được tự do chọn lựa trong phân công lao động cho nên họ chỉ giới hạn tập trung ở một số ngành nghề đặc thù, gặp khó khăn trong việc tham gia vào nhóm nghề nghiệp mới mở hoặc nghề nghiệp nam giới chiếm ưu thế hơn. Ngoài ra, phụ nữ còn dành thời gian làm các công việc nhà và chăm sóc gia đình nhiều hơn nam giới. Theo Tổng cục Thống kê năm 2021, phụ nữ dành trung bình khoảng 19,3 giờ mỗi tuần để làm công việc nội trợ, trong khi nam giới chỉ dành khoảng 11,3 giờ để làm công việc này, thậm chí gần 1/5 nam giới không làm việc nhà giúp vợ con10.
So sánh theo khu vực thành thị – nông thôn qua biểu đồ 2 cho thấy tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở khu vực thành thị trong 5 năm qua lúc nào cũng cao hơn so với ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, khoảng cách này ngày càng thu hẹp dần, nếu như năm 2018 khoảng cách giữa thành thị và nông thôn là 4,7 điểm phần trăm thì đến năm 2022 giảm xuống gần một nửa chỉ còn 2,4 điểm phần trăm. Mặc dù, trong 5 năm qua tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo đều có xu hướng tăng lên. Song, có sự khác biệt tương đối giữa 2 khu vực, ở khu vực nông thôn có tỷ lệ tăng nhanh hơn (năm 2018 chỉ có 16,8% đến năm 2022 đã tăng lên là 21,4%) tăng 4,6 điểm phần trăm, trong khi đó ở khu vực thành thị chỉ tăng có 2,3 điểm phần trăm. Điều đó cho thấy, các chương trình, đề án, kế hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã đạt được những hiệu quả nhất định trong những năm qua.

Kết quả khảo sát năm 2022 cho thấy, sự khác biệt không nhiều giữa 2 địa bàn. Lực lượng lao động không có chuyên môn kỹ thuật ở khu vực thành thị là 84,3% cao hơn chút xíu so với nông thôn là 83,4%. Tỷ lệ lao dộng có chuyên môn kỹ thuật bậc sơ cấp ở nông thôn là 7,4% cao hơn một chút so với ở thành thị là 6,7%. Trong khi đó, lực lượng lao động ở thành thị có chuyên kỹ thuật ở bậc trung cấp (2,4%), bậc cao đẳng (2,2%) cao hơn chút xíu so với ở khu vực nông thôn có tỷ lệ lần lượt là 1,8% và 1,9%. Tuy nhiên, tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật bậc đại học trở lên ở khu vực nông thôn là 5,6% cao hơn so với ở khu vực thành thị là 4,4%. Nhìn chung, số lao động ở nông thôn đã qua đào tạo là 16,6% cao hơn một chút so với thành thị có tỷ lệ là 15,7%. Qua đó, cho thấy ở tỉnh Bình Dương lực lượng lao động đã qua đào tạo có chuyên môn kỹ thuật là tương đối đồng đều, khoảng cách ở khu vực nông thôn và khu vực thành thị tỷ lệ chênh lệch chỉ là trên dưới 1 điểm phần trăm (bảng 2).
Bảng 2 : Chuyên môn kỹ thuật của nghề chính đang làm chia theo Thành thị – Nông thôn
Chuyên môn kỹ thuật (CMKT) | Địa bàn khảo sát | ||||||
Thành thị | Nông thôn | Tổng | |||||
N | % | N | % | N | % | ||
Không có CMKT | 4.041 | 84,3 | 3.110 | 83,4 | 7.151 | 83,9 | |
Sơ cấp | 322 | 6,7 | 276 | 7,4 | 598 | 7,0 | |
Trung cấp | 113 | 2,4 | 66 | 1,8 | 179 | 2,1 | |
Cao đẳng | 107 | 2,2 | 71 | 1,9 | 178 | 2,1 | |
Đại học trở lên | 211 | 4,4 | 208 | 5,6 | 419 | 4,9 | |
Tổng | 4.794 | 100,0 | 3.731 | 100,0 | 8.525 | 100,0 |
Trong giai đoạn từ năm 2010 – 2020, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội đã tổ chức thí điểm một số mô hình đào tạo nghề có hiệu quả tại các địa phương trong tỉnh. Dựa vào tình hình thực tế của từng địa phương, Sở đã triển khai, hoàn thiện và nhân rộng một số mô hình dạy nghề cho lao động nông thôn phát huy hiệu quả, cụ thể như: Mô hình cơ quan nhà nước (Phòng Kinh tế, Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội) phối hợp với các cơ sở dạy nghề có chức năng trên địa bàn tổ chức dạy nghề trực tiếp tại các xã, phường, thị trấn của tỉnh nếu người lao động có nhu cầu. Trong quá trình thực hiện có sự tham gia của các doanh nghiệp (đối với nhóm nghề thuộc lĩnh vực phi nông nghiệp) hoặc hội đoàn thể ở địa phương trên địa bàn (đối với nhóm nghề thuộc lĩnh vực nông nghiệp). Đây là mô hình hiệu quả nhất của tỉnh trong thời gian qua, đang được áp dụng và sẽ tiếp tục triển khai trong thời gian tới11.
Về cơ cấu ngành kinh tế kết quả khảo sát cho thấy 60,1% làm trong lĩnh vực công nghiệp – xây dựng, 28,4% làm trong lĩnh vực dịch vụ – thương mại và 11,5% làm trong lĩnh vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản. Ở khu vực thành thị phần lớn lực lượng lao động làm trong lĩnh vực công nghiệp – xây dựng chiếm 71,2% cao hơn nhiều so với ở khu vực nông thôn là 43,6%. Trong khi đó, ở nông thôn lực lượng làm trong lĩnh vực dịch vụ – thương mại (30,1%) và nông, lâm nghiệp, thủy sản (26,4%) cao hơn so với ở thành thị có tỷ lệ lần lượt là (27,3%) và (1,5%). Lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật qua đào tạo từ bậc sơ cấp trở lên phân theo ngành kinh tế ở lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ lệ là 26,2% cao hơn nhiều so với lĩnh vực dịch vụ và thương mại là 11,9% và nông, lâm nghiệp thủy sản là 12,1% (biểu đồ 3).
Qua đó, cho thấy những chủ trương, chính sách của Bình Dương về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dịch chuyển lao động trong những năm qua có những hiệu quả rõ rệt. Tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng, thương mại – dịch vụ không ngừng tăng lên và tỷ trọng nông, lâm nghiệp thủy sản ngày càng giảm.

3. Đánh giá và khuyến nghị về chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh Bình Dương
Qua những phân tích ở phần trên cho thấy tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo của tỉnh Bình Dương tương đối thấp và chỉ đứng vị trí thứ 3 trong khu vực Đông Nam Bộ. Mặt khác, lực lượng lao động đã qua đào tạo phân bố không đồng đều giữa nam và nữ, giữa khu vực thành thị – nông thôn và ngành kinh tế, từ đó làm mất cân đối nhu cầu nguồn nhân lực và nhu cầu việc làm. Phần lớn lực lượng lao động hiện nay là lao động phổ thông chưa qua đào tạo. Mặc dù, Bình Dương có nhiều lợi thế hơn các tỉnh phía Nam về nguồn cung số lượng nguồn nhân lực được đào tạo qua nhiều nguồn khác nhau (tại chỗ, nhập cư và ngoài nước qua đầu tư nước ngoài). Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực và cơ cấu đào tạo chưa đáp ứng với nhu cầu phát triển của doanh nghiệp và nền kinh tế hiện tại, nhất là thiếu hụt về nguồn lao động chất lượng cao.
Số lượng doanh nghiệp của Bình Dương ngày càng phát triển, nhu cầu lao động kỹ thuật ngày càng lớn nhưng cung ứng không đủ, điều này khiến cạnh tranh lao động trình độ cao rất gay gắt. Hiện nay, quy mô đào tạo lao động kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, thua rất nhiều so với quy mô đào tạo trình độ cao đẳng, đại học. Xã hội hiện nay vẫn còn tồn tại suy nghĩ coi trọng bằng cấp, chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của giáo dục nghề nghiệp. Trong khi đó, chất lượng đào tạo nghề nghiệp vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển nguồn nhân lực. Nhiều doanh nghiệp phải tuyển người lao động nước ngoài ở vị trí quản lý, chuyên gia và lao động kỹ thuật.
Nhu cầu đối với lao động giản đơn (không có chuyên môn kỹ thuật) đang có xu hướng ngày một giảm theo sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế. Điều này đặt ra thách thức cần phải có những phương án đào tạo nhằm cập nhật và nâng cao chất lượng cùng với kỹ năng cần thiết cho đội ngũ lao động giản đơn, nhằm hỗ trợ lực lượng lao động này không bị đào thải và đối mặt với tình trạng thất nghiệp trong nền kinh tế 4.0.
Vì vậy, để có thể cải thiện chất lượng của lực lượng lao động hiện tại đáp ứng được nhu cầu và xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành nghề đặt ra nhiều thách thức đối với việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Thiết nghĩ, Bình Dương cần phải đầu tư có trọng điểm một số trường nghề đạt chuẩn khu vực và quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Đẩy mạnh liên kết giữa hệ thống các trường nghề với các trường phổ thông trong phân luồng học sinh, hướng nghiệp để mở rộng nguồn đầu vào cho các trường đào tạo nghề.
Bên cạnh đó, cần liên kết vùng trong vấn đề phát triển nguồn nhân lực; liên kết đào tạo nguồn nhân lực phục vụ các ngành kinh tế, nhất là các ngành nghề mới gắn với công nghệ và các lĩnh vực mà Bình Dương ưu tiên phát triển.
Ngoài ra, Bình Dương cũng cần nâng cao chất lượng dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động. Đặc biệt, cần dự báo lao động ở các khu vực chính thức, phi chính thức; xây dựng hệ thống kết nối cung cầu lao động liên tỉnh, liên vùng và quốc tế.
Cần tiếp tục thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, các chuyên gia, nhà khoa học, người có tài năng đặc biệt phục vụ cho các chương trình, kế hoạch, dự án nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và tham gia đào tạo nhân lực chất lượng cao. Đồng thời, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn Bình Dương; phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh; tổ chức đào tạo bổ sung, đào tạo nâng cao cho người lao động đang làm việc trên địa bàn tỉnh.
Chú thích:
1. Tỉnh ủy Bình Dương (2011). Chương trình số 20-CTHĐ/TU ngày 20/7/2011 về Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tỉnh Bình Dương giai đoạn 2011 – 2015.
2. Tỉnh ủy Bình Dương (2016). Chương trình số 20- CTr/TU ngày 24/11/ 2016 về Nâng cao chất lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật và đội ngũ công nhân lao động, đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh trong giai đoạn mới.
3. Tỉnh ủy Bình Dương (2021). Chương trình số 20- CTr/TU ngày 31/5/2021 về Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu xây dựng Bình Dương phát triển bền vững theo hướng đô thị thông minh, văn minh, hiện đại giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.
4. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2022). Dữ liệu Điều tra lao động việc làm. H. NXB. Thống kê.
5. Cục Thống kê Bình Dương. (2023). Niên giám thống kê. H. NXB Thống kê.
6. Lê Văn Đại (2023). Phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bình Dương: Các hạn chế, nguyên nhân và một số giải pháp. Tạp chí Công Thương – Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, số 1 (tháng 1/2023).
7. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2023). Niên giám thống kê. H. NXB Thống kê.
8. Lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ so với tổng lực lượng lao động trong kỳ. Trong đó, lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ bao gồm những người thỏa mãn cả hai điều kiện: (1) Đang làm việc trong nền kinh tế hoặc thất nghiệp; (2) Đã được đào tạo ở một trường hay một cơ sở đào tạo chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ thuộc Hệ thống giáo dục quốc dân từ 3 tháng trở lên, đã tốt nghiệp, được cấp bằng/chứng chỉ chứng nhận đã đạt một trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ nhất định.
9. Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động ở nước ta hiện nay. https://danchuphapluat.vn/binh-dang-gioi-trong-linh-vuc-lao-dong-o-nuoc-ta-hien-nay, truy cập ngày 10/10/2024.
10. Báo cáo tác động của dịch Covid-19 đến tình hình lao động, việc làm quý I năm 2021. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/04/bao-cao-tac-dong-cua-dich-covid-19-den-tinh-hinh-lao-dong-viec-lam-quy-i-nam-2021/, truy cập ngày 10/10/2024.
11. Đột phá đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Báo Bình Dương. 2020. https://baobinhduong.vn/dot-pha-dao-tao-nghe-cho-lao-dong-nong-thon- a231796.html, truy cập ngày 10/10/2024.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Đình Quý (2024). Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với phát triển kỹ năng nghề tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Tạp chí Quản lý nhà nước, số 345 (10/2024).
2. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/11/12/nang-cao-chat-luong-dao-tao-nguon-nhan-luc-so-dap-ung-yeu-cau-cua-nen-kinh-te-so-o-viet-nam-hien-nay/
3. Một số giải pháp tăng cường nguồn lực cho hoạt động đào tạo của Phân hiệu Học viện Hành chính Quốc gia tại tỉnh Đắk Lắk. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/11/05/mot-so-giai-phap-tang-cuong-nguon-nhan-luc-cho-hoat-dong-dao-tao-cua-phan-hieu-hoc-vien-hanh-chinh-quoc-gia-tai-tinh-dak-lak/