Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 

TS. Phạm Ngọc Đại
Phân hiệu Học viện Hành chính Quốc gia tại tỉnh Đắk Lắk

(Quanlynhanuoc.vn) – Chính sách dân tộc là bộ phận cấu thành chính sách chung của Đảng và Nhà nước, đề ra những nguyên tắc, biện pháp giải quyết vấn đề dân tộc. Chính sách dân tộc bao gồm những chính sách tác động trực tiếp đến các dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc nhằm mục đích phát triển các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh – quốc phòng ở vùng dân tộc thiểu số, xây dựng khối đoàn kết trong cộng đồng các dân tộc. Qua các giai đoạn lịch sử cụ thể, chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk luôn được bổ sung, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát triển của địa phương. 

Từ khóa: Chính sách dân tộc; nâng cao hiệu quả; đồng bào; dân tộc thiểu số; tỉnh Đắk Lắk.

1. Đặt vấn đề

Đắk Lắk là tỉnh có sự đa dạng về thành phần dân tộc, với 47 dân tộc cùng sinh sống, vấn đề dân tộc là nhân tố chính tác động đến sự ổn định và phát triển bền vững của tỉnh. Những năm qua, Đảng bộ, chính quyền các cấp và Nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã thực hiện tốt chính sách dân tộc, xác định rõ chính sách dân tộc nhằm củng cố và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, bảo đảm quốc phòng, an ninh, tạo tiền đề phát triển kinh tế – xã hội.

2. Quá trình thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ sau năm 1975

Năm 1975, tỉnh Đắk Lắk (bao gồm cả Đắk Nông ngày nay) có 5 huyện và 1 thị xã, diện tích là 19.800 km­­­2, dân số khoảng 321.000 người, với khoảng 10 tộc người cùng sinh sống. Dân tộc thiểu số có 179.854 người (chủ yếu là người thuộc 3 dân tộc thiểu số tại chỗ: Ê Đê, Mnông và Gia Rai), chiếm 56% dân số1.

Cùng với quá trình di dân cơ học, Đắk Lắk sớm trở thành tỉnh đa thành phần dân tộc, chủ yếu từ các tỉnh miền núi phía Bắc. Các dân tộc thiểu số lại có đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau, đa số họ có xuất phát điểm về kinh tế – xã hội thấp; hàng loạt những xung đột về quan hệ dân tộc, như: sở hữu và sử dụng đất đai, khoảng cách giàu nghèo gia tăng, suy giảm nền văn hóa truyền thống của người dân tại chỗ là vấn đề cần phải được quan tâm, giải quyết.

Ngay sau ngày giải phóng, tỉnh Đắk Lắk tập trung thực hiện nhiệm vụ củng cố chính quyền, khôi phục sản xuất, giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ biên giới, từng bước phát triển kinh tế – xã hội. Chính sách dân tộc được thực hiện lồng ghép với chính sách về quốc phòng, an ninh (chống FULRO), chính sách phát triển kinh tế, ổn định đời sống Nhân dân (chính sách di dân theo kế hoạch, xây dựng nông, lâm trường gắn với chính sách định canh, định cư).

Giai đoạn từ sau năm 1986, Đắk Lắk triển khai thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế – xã hội miền núi và Quyết định số 72-HĐBT ngày 13/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế – xã hội miền núi. Nhằm phát huy những kinh nghiệm sản xuất truyền thống nương rẫy, tỉnh đã chủ trương giúp đỡ về mọi mặt cho các hộ dân người dân tộc thiểu số tại chỗ phát triển kinh tế vườn, khuyến khích và hướng dẫn trồng các cây công nghiệp như cao su, rừng, cà phê, hồ tiêu, cây thực phẩm và cây dược liệu. Nhiều chính sách tập trung giải quyết các vấn đề xác định quyền làm chủ đất đai gắn liền với môi trường sống của người dân tộc thiểu số thông qua giao đất giao rừng, khắc phục tranh chấp đất đai, định canh, định cư…, từng bước chuyển đổi cơ cấu kinh tế, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, thúc đẩy trao đổi hàng hoá giữa các vùng.

Đặc biệt, từ năm 1996, với nhiều chính sách đầu tư của Đảng và Nhà nước, vùng dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk đã có những bước chuyển mạnh mẽ và toàn diện. Từ năm 1999, UBND tỉnh Đắk Lắk đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo Chương trình 135. Các dự án cụ thể thuộc Chương trình gồm: dự án xây dựng cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn; dự án xây dựng trung tâm cụm xã; dự án quy hoạch dân cư ở những nơi cần thiết; dự án phát triển nông, lâm nghiệp; dự án đào tạo cán bộ xã, thôn/buôn; dự án hỗ trợ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn; dự án tăng cường cán bộ về cơ sở… Với tổng số 38 xã thuộc 12 huyện được đầu tư nguồn vốn của các dự án thuộc Chương trình 135 đã thực sự tác động lớn đến đời sống kinh tế – xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ2.

Bên cạnh đó, nhiều dự án, chương trình của địa phương trong gần 10 năm (1996 – 2003) nhằm phát triển kinh tế – xã hội và hỗ trợ trực tiếp xóa đói, giảm nghèo tại các cộng đồng nghèo, cộng đồng dân tộc thiểu số đã được triển khai, như: dự án khuyến lâm, khuyến nông; dự án phát triển các ngành nghề; dự án tín dụng cho hộ nghèo vay; dự án định canh, định cư ở các xã nghèo; dự án đào tạo cán bộ cơ sở; chương trình phát triển kinh tế – xã hội thôn/buôn…

Sau sự kiện bạo loạn chính trị tháng 02/2001, để khắc phục những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, nhất là những vấn đề liên quan đến đất đai, chính sách với đồng bào dân tộc thiểu số, ngày 18/01/2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 10/2002/NQ-TW về phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001 – 2010; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác dân tộc, trên cơ sở đó, Tỉnh ủy Đắk Lắk đã xây dựng Chương trình số 18-CTr/TU ngày 14/5/2003 về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 (khoá IX) của Đảng về công tác dân tộc. Triển khai Chương trình số 18-CTr/TU, UBND tỉnh và các ngành, địa phương trong tỉnh đã tổ chức thực hiện đồng bộ các chương trình, chính sách nhằm phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số; bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số; xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số; công tác quốc phòng – an ninh vùng dân tộc thiểu số và thực hiện chính sách đặc thù đối với người dân tộc thiểu số tại chỗ.

Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 10/2002/NQ-TW, Tỉnh ủy Đắk Lắk ban hành Chương trình số 10-CTr/TU ngày 11/01/2012 về việc thực hiện Kết luận số 12-KL/TW tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10/2002/NQ-TW của Bộ Chính trị về phát triển vùng Tây Nguyên giai đoạn 2011 – 2020. Trong đó, mục tiêu đến năm 2020 là xây dựng Đắk Lắk trở thành tỉnh có lực lượng sản xuất phát triển ở mức trung bình của cả nước, có tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế vững chắc. Nâng cao đời sống văn hoá, trình độ dân trí của đồng bào các dân tộc, bảo đảm an sinh xã hội, sớm đưa nông thôn Đắk Lắk thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, phát triển bền vững. Tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, xã hội; ngăn chặn, chủ động, kịp thời làm thất bại âm mưu phục hồi tổ chức, phát triển lực lượng Fulro, “Tin lành Đề Ga” và mưu đồ thành lập “Nhà nước Đề Ga”.

Qua quá trình thực hiện chính sách dân tộc từ sau năm 1975, nhất là từ sau đổi mới năm 1986 đến nay, có thể thấy, bước ngoặt quan trọng trong thực tiễn chính sách dân tộc tại Đắk Lắk là sau khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác dân tộc. Đắk Lắk tập trung lãnh đạo ổn định tình hình an ninh chính trị tại 65 thôn, buôn là điểm nóng về an ninh chính trị; tập trung phát triển toàn diện kinh tế, văn hóa – xã hội thôn, buôn địa bàn vùng dân tộc thiểu số; bố trí, sắp xếp ổn định đời sống dân di cư tự do; củng cố và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở; giữ vững an ninh – quốc phòng, kiểm soát biên giới, chống vượt biên trái phép, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình”; ngăn chặn việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo phá hoại khối đoàn kết giữa các dân tộc trong tỉnh. UBND tỉnh giao nhiệm vụ cụ thể cho các sở, ban, ngành và các cơ quan chức năng của tỉnh thực hiện chính sách dân tộc, chỉ đạo lồng ghép các nguồn lực, các chương trình, dự án, chính sách để đầu tư hiệu quả, tăng cường phối hợp giữa các ngành, các cấp, bám sát thực tiễn, giải quyết những vấn đề bức xúc của đồng bào dân tộc thiểu số ngay từ cơ sở; triển khai việc dạy ngôn ngữ, chữ viết cho người dân tộc thiểu số tại chỗ; ổn định và phát triển vùng đồng bào H’mông, phát huy vai trò của cộng đồng người Hoa…

Tuy nhiên, cho đến năm 2020, vùng dân tộc thiểu số vẫn là vùng khó khăn nhất của tỉnh Đắk Lắk, đặc biệt là vùng các dân tộc thiểu số tại chỗ. Tỷ lệ đói nghèo là người dân tộc thiểu số tại chỗ cao hơn mức bình quân chung. Tỷ lệ đói nghèo chung giảm mạnh nhưng khoảng cách giàu nghèo giữa người Kinh với các dân tộc thiểu số tại chỗ có xu hướng tăng; một bộ phận dân cư vùng sâu, vùng xa có dân trí thấp; văn hóa truyền thống của một số dân tộc bị mai một dần; có nơi tình trạng tội phạm và các tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, tiềm ẩn nguy cơ đe dọa ổn định xã hội. Các chính sách được ban hành nhiều, nhưng hiệu lực, hiệu quả chưa cao, còn tản mạn, nhiều đầu mối quản lý. Phương thức hỗ trợ của một số chính sách còn chưa phù hợp. Nguồn lực thực hiện chính sách chưa bảo đảm thực hiện các mục tiêu, cơ chế thực hiện tuy đã có chuyển biến nhưng vẫn chưa đáp ứng xu thế phát triển. Việc phối hợp tổ chức thực hiện có mặt chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Các chính sách xây dựng và thực hiện còn mang tính ngắn hạn, manh mún, nhiều chính sách kết thúc khi chưa đạt mục tiêu, nhu cầu còn lớn nhưng đã hết hiệu lực thực hiện.

3. Kết quả thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2021 đến nay

Đến cuối năm 2023, tỉnh Đắk Lắk có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có 2 huyện nghèo (M’Drắk, Ea Súp); có 184 xã, phường, thị trấn (trong đó có 130 xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi); 519 thôn, buôn đặc biệt khó khăn; có 74 xã đạt chuẩn nông thôn mới (trong đó có 49 xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi). Dân số có 2.071.658 người, với 47 dân tộc cùng sinh sống (trong đó dân tộc thiểu số có hơn 709.269 người, chiếm 31,2% dân số toàn tỉnh)3

Tại Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ về Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định mục tiêu đến năm 2030 là: ưu tiên phát triển toàn diện, nhanh, bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; khai thác tiềm năng, phát huy hiệu quả lợi thế so sánh của vùng, bảo vệ môi trường và không gian sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số; rút ngắn khoảng cách về mức thu nhập giữa vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi so với vùng phát triển; giảm dần số xã, thôn đặc biệt khó khăn, cải thiện rõ rệt đời sống và nâng cao sinh kế; đẩy mạnh phát triển đồng bộ các lĩnh vực: giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa; bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo nhanh và bền vững; nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước và chất lượng nguồn nhân lực vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; xóa bỏ dần các phong tục tập quán lạc hậu; đồng thời, bảo tồn, phát huy các bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp đặc trưng của các dân tộc; tập trung xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần giữ vững chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia; củng cố sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Nhằm thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc, Tỉnh ủy,  HĐND, UBND tỉnh đã ban hành các văn bản về công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc, cụ thể như: Chỉ thị số 18-CT/TU ngày 25/11/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Đắk Lắk về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân tộc giai đoạn 2021 – 2030; Nghị quyết số 06/2022/NQ-HĐND ngày 20/7/2022 của HĐND tỉnh Đắk Lắk quy định về nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn ngân sách nhà nước thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giai đoạn 2021 – 2030; giai đoạn 1: từ năm 2021 – 2025 trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; Nghị quyết số 04/2023/NQ-HĐND ngày 24/4/2023 của HĐND tỉnh Đắk Lắk ban hành quy định về cơ chế lồng ghép nguồn vốn và huy động các nguồn lực khác thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 22/2021/QĐ-UBND ngày 29/7/2021 của UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành quy chế sử dụng nguồn vốn huy động khác thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; Kế hoạch số 11768/KH-UBND ngày 30/11/2021 của UBND tỉnh Đắk Lắk về phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030; Quyết định số 1189/QĐ-UBND ngày 24/5/2022 của UBND tỉnh Đắk Lắk về kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030; Quyết định số 13/2023/QĐ-UBND ngày 29/3/2023 của UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành quy định về phân cấp quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn tỉnh.

Từ năm 2021 – 2024, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc đã đạt những kết quả nhất định, góp phần thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển chung của tỉnh; diện mạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có nhiều chuyển biến tích cực; kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội từng bước được hoàn chỉnh, đáp ứng nhu cầu sản xuất và dân sinh, thu nhập của đồng bào dân tộc thiểu số được nâng lên, khối đại đoàn kết các dân tộc ngày càng được tăng cường, đồng bào các dân tộc tin tưởng và chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Trong 3 năm qua, tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức thực hiện các chương trình, chính sách trong vùng dân tộc thiểu số, cụ thể: Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025; chính sách đầu tư và sử dụng nguồn lực viện trợ nước ngoài (ODA, NGO…); chính sách cho hộ nghèo là người dân tộc thiểu số vay vốn; Chương trình đầu tư xây dựng công trình thủy lợi; chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thân mới; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững.

Công tác tổ chức bộ máy, phân công phối hợp thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia được quan tâm chỉ đạo. UBND tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo chung cho 3 chương trình (nông thôn mới; giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi), góp phần tăng tính hiệu lực, hiệu quả hoạt động; tạo sự liên kết có tính hệ thống và sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành và địa phương trong thực hiện nhiệm vụ được giao; cơ bản đáp ứng yêu cầu công tác chỉ đạo điều hành. Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, các sở, ban, ngành và địa phương đã tập trung xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản để thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 – 2025 theo phân cấp.

Kết quả giảm nghèo chung và giảm nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số các năm đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2023 giảm 1,75%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm còn 3,5%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị còn 2,45%.

Năm 2023, tỉnh Đắk Lắk đã có 17 trường phổ thông dân tộc nội trú với 2.920 học sinh, trong đó có 2 trường THPT, 15 trường phổ thông dân tộc nội trú – THCS cấp huyện; chưa có trường phổ thông dân tộc nội trú liên cấp. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm còn 17,8%; số giường bệnh đạt 28,5 giường/vạn dân; 7,5 bác sĩ/vạn dân. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế ước đạt 92,5%. Bên cạnh đó, các hoạt động y tế dự phòng được tập trung triển khai thực hiện, cơ bản kiểm soát tốt các dịch bệnh truyền nhiễm trên địa bàn4.

Tỷ lệ hộ đồng bào dân tộc thiểu số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh (bao gồm cả nước sạch) đạt 92,79% (124.206/133.859 hộ). Trong đó, tỷ lệ hộ đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng nước sạch đạt 12,07%, số hộ đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 80,79%5

An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số được giữ vững; đồng bào các dân tộc luôn chấp hành tốt chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia thực hiện tốt phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư, giữ gìn an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh; không có tà giáo, đạo lạ trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, tỉnh đã giải quyết kịp thời nhu cầu sinh hoạt tôn giáo chính đáng theo đúng quy định của pháp luật; tình hình sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh tương đối ổn định.

Mặc dù việc triển khai thực hiện chính sách dân tộc đã đạt được nhiều thành tựu, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế:

Thứ nhất, quá trình thể chế hóa chính sách dân tộc và tiến độ tổ chức thực hiện các chính sách còn chậm, như: các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số… Nguyên nhân là chưa có hướng dẫn đầy đủ, chưa thống nhất cách thức thực hiện, còn chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các cấp quản lý, giữa các bộ, ngành, giữa trung ương, tỉnh, huyện và xã, gây lúng túng cho các cấp địa phương trong tổ chức thực hiện chính sách.

Thứ hai, nội dung, đối tượng thụ hưởng trong các chính sách dân tộc thực hiện trong giai đoạn 2021 – 2025 có nhiều điểm mới, đặc biệt là Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Công tác rà soát, xác định tiêu chí tính điểm phân bổ, xác định danh mục dự án đầu tư còn nhiều lúng túng, ảnh hưởng tiến độ giao kế hoạch, triển khai thực hiện và giải ngân.

Thứ ba, theo dự toán vốn sự nghiệp hằng năm, trung ương giao trực tiếp đến các dự án, tiểu dự án thành phần và theo lĩnh vực chi của từng chính sách, làm hạn chế sự linh hoạt của tỉnh trong việc xây dựng phương án phân bổ chi tiết dự toán bảo đảm phù hợp với khả năng triển khai thực hiện của cơ sở.

Thứ tư, mặc dù đời sống kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh Đắk Lắk đã có những bước phát triển, nhưng hiện nay vẫn là vùng khó khăn nhất. Số hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn cao, số hộ thoát nghèo nhưng chưa thực sự bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2022 – 2025 còn cao, toàn tỉnh có 54.689 hộ nghèo, chiếm 10,94%. Trong đó, hộ nghèo là dân tộc thiểu số có 35.982 hộ, chiếm 65,79% tổng số hộ nghèo toàn tỉnh6.

4. Một số giải pháp 

Một là, chính quyền các cấp cần tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống chính sách dân tộc trong tình hình mới, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trọng tâm là Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác dân tộc trong tình hình mới; Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc; Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ ban hành Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 23/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030.

Hai là, tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội từ tỉnh đến thôn, buôn đẩy mạnh hoạt động truyền thông chính sách để Nhân dân hiểu rõ vai trò, vị trí công tác dân tộc và chính sách dân tộc, từ đó nhận thức đầy đủ các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và chủ động triển khai thực hiện hiệu quả chính sách dân tộc trong tình hình mới, tạo sự đồng thuận và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, khơi dậy ý chí tự lực vươn lên của người nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu số, sẵn sàng tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả chính sách và nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước, xã hội. 

Ba là, UBND tỉnh thường xuyên rà soát, kiện toàn bộ máy tổ chức thực hiện chính sách dân tộc các cấp; tăng cường phân cấp gắn liền với quyền hạn, trách nhiệm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, cụ thể đến từng sở ngành, địa phương trong thực hiện chính sách dân tộc. Chú trọng công tác bồi dưỡng, tập huấn nhằm nâng cao năng lực thực hiện chính sách dân tộc cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện chính sách dân tộc các cấp, nhất là cấp xã.

Bốn là, UBND tỉnh thường xuyên thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc triển khai thực hiện các chương trình, chính sách đầu tư tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nhằm giải quyết kịp thời những vấn đề khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện; phát huy tối đa hiệu quả đầu tư phát triển, phòng chống tham nhũng, lãng phí, góp phần thực hiện đạt kết quả tốt các mục tiêu, chỉ tiêu, kế hoạch được giao hằng năm và từng giai đoạn.

5. Kết luận

Xác định rõ ý nghĩa quan trọng của chính sách dân tộc đối với quá trình phát triển, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đắk Lắk đã chủ động tổ chức thực hiện nhiều chính sách dân tộc phù hợp. Việc triển khai thực hiện các chính sách dân tộc luôn bảo đảm đúng đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đáp ứng tốt nguyện vọng của đồng bào các dân tộc thiểu số. Kết quả thực hiện các chính sách trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, bộ mặt nông thôn vùng dân tộc, vùng căn cứ cách mạng thay đổi rõ nét, đời sống của đồng bào các dân tộc được cải thiện, khoảng cách phát triển giữa các nhóm dân tộc được thu hẹp, an ninh chính trị trên địa bàn được giữ vững, quyền bình đẳng giữa các dân tộc ngày càng được củng cố, có chiều sâu trên cả ba lĩnh vực kinh tế, văn hóa và chính trị.

Chú thích:
1. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (1930 – 2020). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 354. 
2. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2010). Báo cáo Chính trị Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk lần thứ nhất.
3, 4, 5, 6. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2023).  Báo cáo kết quả công tác dân tộc năm 2023 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2024.