ThS. Trần Thanh Khiết
Bộ Giáo dục và Đào tạo
(Quanlynhanuoc.vn) – Chuyển đổi số là xu thế diễn ra gần như trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Giáo dục đại học – một bộ phận trong nền giáo dục quốc dân cũng nằm trong bối cảnh chung đó. Thực hiện chuyển đổi số không chỉ đơn thuần là dùng máy tính, ứng dụng công nghệ thông tin mà là thay đổi tư duy, phương pháp, quy trình, mô hình quản lý nhà nước, quản trị xã hội, doanh nghiệp đối với sự phát triển của doanh nghiệp, tổ chức và từng người dân1. Từ thực tiễn đặt ra, bài viết nghiên cứu về một số yêu cầu đối với quản lý nhà nước về giáo dục đại học trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
Từ khóa: Chuyển đổi số, giáo dục đại học, quản lý nhà nước, yêu cầu đặt ra.
1. Đặt vấn đề
Chuyển đổi số là một trong những xu thế nổi bật nhất của thế kỷ 21, là bước phát triển tiếp theo của tin học hóa, có được nhờ sự tiến bộ vượt bậc của những công nghệ mới mang tính đột phá, nhất là công nghệ số. Trên thế giới, chuyển đổi số bắt đầu được nhắc đến nhiều vào năm 2015, phổ biến từ năm 2017. Ở Việt Nam, năm 2020 đặt dấu mốc quan trọng cho chuyển đổi số với việc ngày 03/6/2000, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”2. Nhìn chung, chuyển đổi số mang tới sự thay đổi căn bản và toàn diện về cách sống, cách làm việc, phương thức sản xuất của mọi chủ thể trong xã hội; quản lý nhà nước cũng không nằm ngoài dòng chảy của thời đại công nghệ số.
2. Đổi mới tư duy, nhận thức trong quản lý nhà nước về giáo dục đại học
Trong bất kỳ sự đổi mới nào, đổi mới về tư duy, nhận thức là quan trọng và điểm khởi đầu cho tất cả các đổi mới liên đới, như đổi mới thể chế, đổi mới về tổ chức bộ máy, nhân sự hay các quan hệ xã hội. Trong bối cảnh hiện nay, đối tác của giáo dục đại học là doanh nghiệp, người dân và xã hội đã thay đổi nhanh chóng, kéo theo sự thay đổi của đối tượng quản lý bởi sự ứng dụng chuyển đổi số, từ đó đặt ra những yêu cầu mới về tư duy và cách ứng phó đối với chủ thể quản lý.
Cách tư duy cũ “cái gì phức tạp, cái gì không quản lý được thì cấm” không còn phù hợp, tuy nhiên, cũng không có mô hình ứng xử chung nào trên thế giới có thể áp dụng rộng khắp, mỗi quốc gia có quan điểm và cách thức ứng xử riêng (có nước thì cấm, có nước cho phép, nhưng có nước lại khuyến khích). Trong quản lý xã hội, những cụm từ “xã hội mở”, “xã hội thông minh”, “công dân toàn cầu”… đã không còn xa lạ, vấn đề là quản lý hành chính/cung cấp dịch vụ công/huy động nguồn lực đối với những đối tượng như thế đòi hỏi phải thay đổi mạnh mẽ, bắt đầu từ tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước. Những quan điểm “mệnh lệnh hành chính bắt buộc”, quan điểm “xin cho, nguyên tắc” hay “xử phạt, cấm đoán” cần chuyển mạnh sang cách tư duy và hành động mang tính linh hoạt và mềm dẻo hơn như “đối thoại, đàm phán, hợp tác, kết nối”3.
3. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số
Theo khoản 1 Điều 68 Luật Giáo dục đại học năm 2012, nội dung quản lý nhà nước về giáo dục đại học được đề cập đầu tiên là “xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục đại học”. Có thể hiểu, Nhà nước thông qua các công cụ trên sẽ điều tiết ở cấp độ vĩ mô đối với hoạt động của các tổ chức, cơ sở giáo dục, trong đó có giáo dục đại học.
Một là, cần đặt bối cảnh của thị trường lao động hiện tại và trong tương lai gần là căn cứ thực tiễn quan trọng để xây dựng chiến lược phát triển giáo dục đại học. Ở thời điểm hiện tại, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang trong quá trình dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn đến 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, Chiến lược phát triển cho toàn ngành giáo dục đã đặt ra mục tiêu rất cụ thể cho giáo dục đại học là “Bảo đảm tỷ lệ sinh viên có việc làm phù hợp trình độ chuyên môn trong 12 tháng sau tốt nghiệp đạt trên 90%”. Mục tiêu tham vọng này tất yếu sẽ buộc các nhà quản lý giáo dục, các cơ sở giáo dục phải có những thay đổi căn bản, như: mở mã ngành đào tạo mới, hoặc điều chỉnh chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tế về nhân lực hiện nay.
Trên thực tế, Chính phủ Việt Nam đã có những hành động cụ thể: công tác đào tạo nhân lực số đã có bước phát triển mới và đạt được kết quả quan trọng. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã bổ sung 5 mã ngành mới vào chương trình đào tạo đại học, sau đại học. Số lượng tuyển sinh đào tạo kỹ sư, cử nhân máy tính và công nghệ thông tin năm 2022 đạt 70.000 người, tăng 16% so với năm 2021. Hằng năm, số lượng sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành này vào khoảng hơn 65.000 (tính cả cao đẳng, trung cấp)4. Quá trình này tất yếu phải có sự chung tay và đồng lòng tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức có nhu cầu tuyển dụng lao động. Trên cơ sở đó, Chiến lược phát triển giáo dục đại học cũng cần được nghiên cứu, xây dựng dựa trên thực trạng cung – cầu của thị trường lao động, trong đó nổi bật là sự gia tăng đáng kể nhu cầu nguồn nhân lực có khả năng đáp ứng yêu cầu của bối cảnh chuyển đổi số.
Hai là, ngoài chiến lược, một loại văn bản khác cũng cần phải xem xét và đánh giá sâu sắc những tác động của chuyển đổi số đối với cấu trúc lao động, cấu trúc việc làm là Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học. Theo khoản 1 Điều 11 Luật Giáo dục đại học năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018), Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học là “sự phân bổ, sắp xếp hệ thống các trường đại học, học viện, đại học, với cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo phù hợp với quy mô dân số, vị trí địa lý, vùng lãnh thổ trên toàn quốc và từng địa phương, cho từng thời kỳ, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và quốc phòng, an ninh của đất nước”. Định nghĩa này một lần nữa thể hiện mối quan hệ khăng khít mang tính tất yếu của đào tạo hệ đại học với cấu trúc ngành nghề ở mỗi giai đoạn cụ thể.
Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học cần phải được xây dựng trên cơ sở phù hợp với nhu cầu nguồn nhân lực của xã hội. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm (2021 – 2030) đã dự báo tác động sâu rộng của chuyển đổi số đối với tất cả các lĩnh vực, đề ra quan điểm “phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”. Chiến lược cũng đề ra mục tiêu “chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số để phát triển xã hội số”. Mục tiêu này đồng thời cũng sẽ đặt ra nhiệm vụ cho ngành Giáo dục phải thiết kế mạng lưới cơ sở giáo dục đại học với cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo phù hợp, góp phần cung cấp kịp thời nguồn nhân lực đủ về số lượng và có chất lượng, đáp ứng được xu thế chuyển đổi số trong nước, bảo đảm không tụt hậu so với dòng chảy chuyển đổi số toàn cầu.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 209/QĐ-TTg ngày 17/02/2021 về việc phê duyệt nhiệm vụ Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050; tiếp theo là Quyết định số 57/QĐ-TTg ngày 16/01/2024 về việc thành lập Hội đồng thẩm định Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Những tác động của chuyển đổi số đòi hỏi sự cân đối trong cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo rất cần được xem xét, nghiên cứu cẩn trọng quá trình xây dựng Quy hoạch này.
Tổng kết lại, bối cảnh chuyển đổi số đặt ra yêu cầu đối với quản lý nhà nước trong việc xây dựng, thiết kế các chính sách phát triển phù hợp đối với giáo dục đại học, nhằm mục tiêu đáp ứng được những biến động trong cấu trúc việc làm, nghề nghiệp đang thay đổi từng ngày, từng giờ dưới tác động của làn sóng công nghệ hiện nay. Yêu cầu này không chỉ đặt ra đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo với tư cách là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục đại học. Các bộ, cơ quan ngang bộ với tư cách là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước đối với từng ngành, nhóm ngành cụ thể cũng có trách nhiệm nghiên cứu để dự báo nhu cầu nhân lực của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý để hỗ trợ Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng chính sách phát triển phù hợp, thể hiện sự liên kết chặt chẽ giữa đào tạo đại học với nhu cầu thực tế về ngành, nghề của xã hội.
Ba là, cần xây dựng một khuôn khổ pháp lý điều chỉnh riêng về hoạt động đào tạo trực tuyến trong cơ sở giáo dục đại học. Hiện nay, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 30/2023/TT-BGDĐT ngày 29/12/2023 quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo trực tuyến đối với giáo dục đại học. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Thông tư này giới hạn ở một vấn đề cụ thể là ứng dụng công nghệ thông tin: nguyên tắc, nội dung, yêu cầu tối thiểu về ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo trực tuyến đối với giáo dục đại học.
Trong thời gian tới, cần nghiên cứu xây dựng thêm văn bản quy phạm pháp luật khác điều chỉnh một cách toàn diện hơn các vấn đề liên quan đến đào tạo trực tuyến trong giáo dục đại học, trong đó làm nổi bật trách nhiệm của các chủ thể có liên quan như người học, giảng viên, đội ngũ quản trị, vận hành hệ thống đào tạo trực tuyến, đội ngũ thiết kế và sản xuất học liệu, bộ môn, khoa quản lý chuyên môn; các giải pháp phòng ngừa và xử lý hành vi vi phạm bản quyền… Các quy định về điều kiện bảo đảm thực hiện, vai trò của cơ quan quản lý nhà nước cũng cần được nhấn mạnh thay vì chỉ trao quyền cho các giám đốc, hiệu trưởng cơ sở giáo dục đại học.
Hiện nay, một điểm tích cực là Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Quyết định số 4740/QĐ-BGDĐT ngày 06/12/2022 ban hành Bộ chỉ số, tiêu chí đánh giá chuyển đổi số cơ sở giáo dục đại học. Theo Quyết định, Bộ chỉ số bao gồm hai nhóm tiêu chí thành phần là: (1) Chuyển đổi số trong đào tạo; (2) Chuyển đổi số trong quản trị cơ sở giáo dục đại học. Quyết định này đặt ra những nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị có trách nhiệm liên quan: Cục Công nghệ thông tin, Vụ Giáo dục đại học phối hợp trong việc hướng dẫn các nhà trường tổ chức triển khai đánh giá mức độ chuyển đổi số; Thanh tra Bộ phối hợp với Cục Công nghệ thông tin tổ chức giám sát, kiểm tra kết quả đánh giá theo bộ chỉ số này tại các cơ sở giáo dục đại học. Thực hiện bộ chỉ số này sẽ góp phần quan trọng để các nhà trường tự đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm từ thực tiễn thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động chuyên môn cũng như quản trị đại học, qua đó từng bước cải thiện năng lực ứng dụng chuyển đổi số, cải thiện chất lượng đào tạo và hiệu quả quản trị.
4. Kiện toàn bộ máy quản lý, nâng cao năng lực thực thi chính sách, pháp luật trong giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số
Đào tạo trực tuyến cùng với nhu cầu xây dựng, quản lý, khai thác học liệu số là một thực tế phổ biến hiện nay ở các cơ sở giáo dục đại học, đặt ra những yêu cầu đối với quản lý nhà nước, như:
Thứ nhất, Nhà nước cần có chính sách cụ thể hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật cho các cơ sở giáo dục đại học thực hiện chuyển đổi số trong hoạt động dạy – học và quản lý hoạt động đào tạo trực tuyến. Trách nhiệm này chủ yếu thuộc về Bộ Giáo dục và Đào tạo với tư cách là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục đại học. Khoản 36 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 cũng đã quy định trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc “xây dựng cơ chế, quy định về huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển giáo dục đại học”. Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ phải thiết kế các chính sách, cơ chế phù hợp để hỗ trợ các cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt là các trường còn hạn chế về tài chính để có thể huy động thêm nguồn lực phục vụ cho đào tạo trực tuyến – một xu thế tất yếu trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
Thứ hai, trước thách thức của việc mất an toàn thông tin trong dạy học trực tuyến, các cơ quan chức năng cần phải thực hiện một số giải pháp như sau:
(1) Ban hành quy định bắt buộc đối với các phần mềm, thiết bị dạy học trực tuyến, trong đó bao gồm các nội dung về bảo đảm an toàn thông tin, quy định đối với các ứng dụng hỗ trợ bảo đảm an toàn thông tin các nền tảng dạy học trực tuyến (ví dụ phải có các chức năng kiểm soát lớp học, không cho phép quảng cáo trên phần mềm dưới mọi hình thức). Phần mềm phải được kiểm định, “dán nhãn” trước khi đưa vào sử dụng trong môi trường giáo dục hoặc phải nằm trong danh mục các sản phẩm do cơ quan chức năng công bố. Theo đó, nhà trường, giáo viên lựa chọn sử dụng các ứng dụng phù hợp với nhu cầu, điều kiện cụ thể của mình. Điều này cũng là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp công nghệ không ngừng hoàn thiện sản phẩm, quan tâm đầu tư nâng cấp tính an toàn đối với sản phẩm của mình trước khi cung cấp cho các cơ sở giáo dục.
(2) Có chính sách để từng bước thúc đẩy hình thành các nền tảng dạy học trực tuyến của Việt Nam, do người Việt Nam tự xây dựng, có thể dùng chung để đa số nhà trường, giáo viên sử dụng, tạo thành hệ sinh thái học tập đồng bộ, tránh phụ thuộc vào các phần mềm của nước ngoài và tránh việc phát triển, sử dụng nhiều phần mềm gây lãng phí, khó liên thông chia sẻ dữ liệu.
(3) Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ cập kiến thức, kỹ năng an toàn thông tin trên không gian mạng cho đối tượng giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục, người học để phòng tránh được các nguy cơ mất an toàn thông tin mạng khi tham gia dạy – học trực tuyến.
Thứ ba, quy định về công tác kiểm duyệt, giám sát nội dung bài giảng trực tuyến để tránh truyền đưa các thông tin thất thiệt, chưa được kiểm chứng vào môi trường lớp học; xây dựng các kênh hỗ trợ, bảo vệ học sinh khi gặp sự cố, nguy cơ mất an toàn thông tin; triển khai hệ thống mã định danh, xác thực thống nhất, mỗi học sinh và mỗi giáo viên chỉ có một mã duy nhất trên mạng, phục vụ việc xác thực, kiểm soát và tránh mạo danh.
5. Tăng cường kiểm soát quản lý nhà nước trong giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số
Như vậy, ở khâu tuyển sinh, chuyển đổi số về cơ bản mang lại giá trị tích cực bởi làm đa dạng hóa phương thức tổ chức tuyển sinh của các cơ sở giáo dục đại học, giúp thông tin tuyển sinh đến được người có nhu cầu một cách nhanh chóng, minh bạch, thuận lợi. Vai trò của quản lý nhà nước sẽ cần được đề cao hơn ở khâu mở ngành đào tạo – vốn có mối quan hệ mật thiết với công tác tuyển sinh. Cụ thể, cần siết chặt hơn nữa các quy định về điều kiện mở ngành đào tạo; về trình tự, thủ tục mở ngành; tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm trong mở ngành đào tạo, qua đó giảm thiểu nguy cơ các trường mở ngành ồ ạt, sai quy định nhằm bắt kịp các xu thế (trong đó có chuyển đổi số), đồng thời, tuyển sinh sẽ được nhiều hơn.
Một là, Nhà nước cần có cơ chế quản lý, kiểm soát việc ban hành các văn bản liên quan đến liêm chính học thuật. Thực tế hiện nay cho thấy, không phải tất cả các cơ sở giáo dục đại học đều đã hoàn thành việc ban hành bộ quy tắc về liêm chính học thuật hay các quy định nội bộ đề cập trực tiếp, toàn diện và cụ thể về vấn đề này. Nhà nước cần siết chặt hơn nữa các điều kiện bảo đảm thi hành, như tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các nhà trường trong trường hợp không xây dựng, ban hành quy định về liêm chính học thuật.
Hai là, cần xây dựng một khung pháp lý chung là cơ sở để các trường đại học xây dựng bộ quy tắc về liêm chính học thuật của riêng mình; thống nhất cách hiểu thống nhất về các hành vi vi phạm: thế nào là đạo văn, gian lận, bịa đặt; quy định về cơ quan quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu khoa học và đào tạo dùng chung: Cơ sở dữ liệu phục vụ kiểm soát đạo văn; thống nhất về các công cụ kiểm soát đạo văn… Cần nhấn mạnh rằng, sự can thiệp của Nhà nước, bao gồm thể chế hóa, xây dựng khung pháp lý chung để điều chỉnh; xây dựng các điều kiện bảo đảm thực hiện, tăng cường hậu kiểm, xử lý vi phạm… trở nên cấp thiết trong bối cảnh liêm chính học thuật đối mặt với ngày càng nhiều rủi ro vi phạm dưới tác động của sự phát triển, bùng nổ công nghệ số hiện nay.
6. Kết luận
Chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống, trong đó có giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Trong thời đại ngày nay, chuyển đổi số thường xuất phát từ động lực của chính cơ sở giáo dục đại học. Tức là bản thân các nhà trường đã chủ động tìm kiếm cơ hội để có thể chuyển đổi số thành công, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo, dịch vụ và năng lực cạnh tranh trên thị trường. Mặc dù vậy, quản lý nhà nước vẫn luôn giữ một vai trò quan trọng, thông qua chính sách, pháp luật và các công cụ khác, như: tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn; hỗ trợ các nguồn lực tài chính, hạ tầng, kỹ thuật; giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm… Sự đồng hành và trợ lực từ phía Nhà nước sẽ giúp các cơ sở giáo dục đại học, một mặt phát huy những lợi ích của chuyển đổi số, mặt khác hạn chế, giảm thiểu những tác động tiêu cực của xu thế tất yếu này.
Chú thích:
1. Chuyển đổi số là thay đổi tư duy quản lý nhà nước, quản trị xã hội. https://dangcongsan.vn/thoi-su/chuyen-doi-so-la-thay-doi-tu-duy-quan-ly-nha-nuoc-quan-tri-xa-hoi-623676.html, ngày 04/11/2022.
2. Bộ Thông tin và Truyền thông (2021). Cẩm nang chuyển đổi số. H. NXB Thông tin và Truyền thông; tr.21.
3. Chuyển đổi số và thách thức đối với thực thi quyền lực nhà nước. https://tcnn.vn/news/detail/60790/Chuyen-doi-so-va-thach-thuc-doi-voi-thuc-thi-quyen-luc-nha-nuoc.html, ngày 24/8/2023.
4. Phát triển nhanh nguồn nhân lực cho chuyển đổi số. https://dangcongsan.vn/khoa-hoc/phat-trien-nhanh-nguon-nhan-luc-cho-chuyen-doi-so-652065.html, ngày 13/11/2023.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (2022). Quyết định số 4740/QĐ-BGDĐT ngày 06/12/2022 ban hành Bộ chỉ số, tiêu chí đánh giá chuyển đổi số cơ sở giáo dục đại học.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, Tập II. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Quốc hội (2012). Luật Giáo dục đại học năm 2012.
4. Quốc hội (2018). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018.
5. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 209/QĐ-TTg ngày 17/02/2021 về việc phê duyệt nhiệm vụ Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
6. Thủ tướng Chính phủ (2024). Quyết định số 57/QĐ-TTg ngày 16/01/2024 về việc thành lập Hội đồng thẩm định Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
7. Những khó khăn và thách thức trong dạy và học trực tuyến. https://lyluanchinhtrivatruyenthong.vn/nhung-kho-khan-va-thach-thuc-trong-day-va-hoc-truc-tuyen-p27440.html, ngày 14/9/2023.
8. Chuyển đổi số đang thay đổi lĩnh vực lao động, việc làm. https://nhadautu.vn/chuyen-doi-so-dang-thay-doi-linh-vuc-lao-dong-viec-lam-d59788.html, ngày 31/10/2021.
9. Chuyển đổi số là thay đổi tư duy quản lý nhà nước, quản trị xã hội. https://dangcongsan.vn/thoi-su/chuyen-doi-so-la-thay-doi-tu-duy-quan-ly-nha-nuoc-quan-tri-xa-hoi-623676.html, ngày 04/11/2022.