ThS. Nguyễn Thị Lan Hương
ThS. Trịnh Thị Phượng
Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa
(Quanlynhanuoc.vn) – Xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng liên tục, không ngừng, toàn diện cả về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội và con người. Đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, trong đó vai trò quan trọng của chính quyền cấp xã. Những năm qua, chính quyền cấp xã ở tỉnh Thanh Hóa đã phát huy hiệu quả vai trò trong tổ chức, triển khai thực hiện với nhiều cách làm riêng, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn, góp phần đẩy nhanh quá trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh.
Từ khóa: Chính quyền cấp xã; xây dựng nông thôn mới; phát huy vai trò; tỉnh Thanh Hóa.
1. Đặt vấn đề
Những năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, sự vào cuộc mạnh mẽ của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể xã hội, của các doanh nghiệp và sự chủ động phát huy sức mạnh của người dân với tư cách là chủ thể, vì vậy, quá trìnhxây dựng nông thôn mới ở Thanh Hóa đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Theo đó, nhiều địa phương đã thay đổi, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch đúng hướng, tăng thu nhập, giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ đói nghèo, tình hình chính trị – xã hội ổn định, dân chủ được tăng cường. Đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền cấp xã nhìn chung có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng; có phẩm chất, đạo đức lối sống, trình độ và năng lực được nâng lên. Thực tế những kết quả đạt được trong xây dựng xã nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu ở các địa phương đã thể hiện rõ vai trò quan trọng của lãnh đạo của cấp ủy, sự quản lý của chính quyền xã trên địa bàn tỉnh.
2. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nông thôn mới
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách về xây dựng nông thôn mới đã tác động sâu sắc và trực tiếp đến đời sống mọi mặt của các tầng lớp nhân dân ở cấp xã, làm thay đổi trạng thái tâm lý, thay đổi cách nghĩ, cách làm của Nhân dân và các mối quan hệ khác ở nông thôn; đồng thời tác động trực tiếp đến vai trò lãnh đạo của cấp ủy, quản lý của chính quyền cấp xã trong xây dựng nông thôn mới tại các địa phương.
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nêu một cách toàn diện quan điểm của Đảng ta về xây dựng nông thôn , trong đó nhấn mạnh: “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò to lớn, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước”1.
Để cụ thể hóa nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới của Đảng, ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 491/QĐ-TTg ban hành Bộ Tiêu chí quốc gia về nông thôn mới gồm 19 tiêu chí. Ngày 04/6/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 800/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020 với mục tiêu chung là: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa”2.
Để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, ngày 15/7/2014, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 18/CT-TTg về tăng cường chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Qua đó, Chỉ thị nêu nhiệm vụ chung: “Người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các cấp phải trực tiếp chỉ đạo việc triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, là yếu tố quyết định cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững, trực tiếp góp phần quan trọng vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”3.
Ngày 22/02/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 263/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025. Tiếp đó, ngày 08/3/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 318/QĐ-TTg ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025; Quyết định số 320/QĐ-TTg ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới; quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025.
Trên cơ sở những định hướng, đường lối của Đảng, đến nay, hệ thống cơ chế, chính sách và văn bản hướng dẫn thực hiện chương trình của trung ương đã được ban hành đầy đủ. Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu được triển khai ở nhiều lĩnh vực khác nhau: đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; hoàn thiện hạ tầng cơ sở; kết nối sản xuất vùng với thị trường; chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) nhằm nâng cao giá trị gia tăng, phù hợp với quá trình chuyển đổi số, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển du lịch nông thôn; hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp ở nông thôn; chính sách giảm nghèo bền vững; chính sách nâng cao chất lượng y tế và chăm sóc sức khỏe người dân nông thôn, truyền thông về xây dựng nông thôn mới; chính sách hỗ trợ chất lượng môi trường như xây dựng cảnh quan nông thôn sang – xanh – sạch – đẹp, an toàn, giữ gìn và khôi phục cảnh quan truyền thống của nông thôn Việt Nam.
Thực hiện các quan điểm, chủ trương về xây dựng nông thôn mới, chính sách của Nhà nước về xây dựng xã nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa đã ban hành nhiều nghị quyết, kế hoạch, chương trình, đề án để tổ chức triển khai thực hiện với giai đoạn 2010 – 2020 và giai đoạn 2021 – ; đồng thời, ban hành các nghị quyết, chỉ thị, quyết định kế hoạch và văn bản chỉ đạo, điều hành thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.
3. Thực trạng phát huy vai trò của chính quyền cấp xã trong xây dựng xã nông thôn mới ở tỉnh Thanh Hoá
Hiện nay, Thanh Hóa là tỉnh có số lượng xã nhiều nhất cả nước (573 xã), trong đó có 100 xã thuộc diện khó khăn (7 huyện nghèo thuộc chương trình 30a)4; thường xuyên phải chịu tác động do thiên tai, bão lũ gây ra; dịch bệnh hằng năm diễn biến phức tạp, nguồn lực đầu tư cho chương trình còn nhiều hạn chế. Khi bắt đầu triển khai thực hiện chương trình (năm 2010), bình quân toàn tỉnh mới đạt 4,7 tiêu chí/xã5; nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân chưa đầy đủ, còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại; công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nơi thiếu quyết liệt.
Ngay sau khi chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được ban hành, tỉnh đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện chương trình đồng bộ từ tỉnh đến huyện, xã, thôn, bản; Ban Chỉ đạo các cấp đã ban hành quy chế hoạt động, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên; từ đó, đã phát huy vai trò, trách nhiệm trong triển khai, tổ chức thực hiện chương trình; từng thành viên Ban Chỉ đạo đã xây dựng kế hoạch hành động cụ thể. Công tác tuyên truyền, vận động thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã được triển khai toàn diện, rộng khắp, bằng nhiều hình thức từ cấp tỉnh đến cơ sở với nhiều nội dung phong phú, đa dạng.
Phát hành bản tin xây dựng nông thôn mới; bản tin sản xuất, thị trường và tiêu thụ sản phẩm thuộc chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP); liên tục cập nhật các thông tin trên website:Nongthonmoithanhhoa.vn, OCOPtinhthanhhoa.com.vn… Đặc biệt, phong trào chung sức xây dựng nông thôn mới cũng đã được cấp ủy, chính quyền đoàn thể các địa phương hưởng ứng tích cực, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân. Đã góp phần đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh, xuất hiện nhiều cách làm hay, sáng tạo, nhiều mô hình, điển hình tiên tiến trong xây dựng nông thôn mới được ghi nhận và biểu dương, khen thưởng. Nội dung chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai đồng bộ, quyết liệt, kịp thời, toàn diện trên các mặt.
Để thực hiện có hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới gắn với tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, chính quyền các xã trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã rất quan tâm đến việc rà soát và xây dựng mới các quy hoạch. Đến nay, tất cả các xã trên địa bàn tỉnh đã lập và phê duyệt quy hoạch xã nông thôn mới, hoàn thành mục tiêu đề án của tỉnh và đã quy hoạch vùng huyện theo quy hoạch chung của tỉnh. Bên cạnh việc lồng ghép các chương trình, dự án được triển khai thực hiện trên địa bàn nông thôn. Giai đoạn 2021 – 2023, cùng với nguồn vốn trung ương, tỉnh hỗ trợ xây dựng nông thôn mới; nguồn vốn lồng ghép các chương trình, dự án và huy động các nguồn lực khác, các địa phương đã đầutư xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo hệ thống hạ tầng thuộc chương trình quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Tính đến tháng 7/2024, toàn tỉnh có 1.331 hợp tác xã, 3 liên hiệp hợp tác xã đang hoạt động6. Nhiều hợp tác xã đã có những đóng góp quan trọng trong thực hiện chương trình giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Thanh Hóa đã chủ động triển khai xây dựng Đề án, Kế hoạch thực hiện, tập huấn cho đội ngũ cán bộ và người dân.
Tính đến ngày 09/10/2024, toàn tỉnh có 492 sản phẩm OCOP được công nhận (trong đó có 464 sản phẩm công nhận mới và 28 sản phẩm đánh giá, công nhận lại của giai đoạn 2019 – 2020), gồm: 445 sản phẩm hạng 3 sao; 46 sản phẩm hạng 4 sao; 1 sản phẩm 5 sao của 379 chủ thể OCOP (66 doanh nghiệp, 115 hợp tác xã, 10 tổ hợp tác, 188 hộ sản xuất, kinh doanh), trên địa bàn 27 huyện, thị xã, thành phố; trên cơ sở khảo sát đánh giá tại các cơ sở sản xuất và các chủ thể OCOP cho thấy, sản phẩm sau khi được công nhận xếp hạng OCOP cấp tỉnh đều tăng trưởng cả về quy mô, số lượng và doanh thu bán hàng (khoảng 15 – 20%)7.
Việc xây dựng, phát triển sản phẩm OCOP đã góp phần quan trọng vào việc khơi dậy tính cộng đồng của người dân trong phát triển kinh tế; giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động, nhất là lao động yếu thế ở địa bàn nông thôn và bảo vệ môi trường sinh thái. Các mô hình phát triển sản xuất theo chuỗi liên kết giá trị cũng được quan tâm hỗ trợ thực hiện. Thông qua thực hiện các mô hình phát triển sản xuất đã góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao giá trị sản xuất và thế mạnh của từng vùng, từng địa phương.
Tính đến ngày 09/10/2024, toàn tỉnh đã có 14 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; có 369 xã và 727 thôn, bản miền núi đạt chuẩn nông thôn mới; 116 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 27 xã và 525 thôn, bản đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu8. Để đạt được kết quả trên, chính quyền cấp xã đã phát huy vai trò trong tổ chức thực hiện chủ trương, nhiệm vụ về xây dựng nông thôn mới, cụ thể:
(1) Đối với việc xây dựng đề án, kế hoạch: thực hiện nguyên tắc xây dựng đề án, kế hoạch, thực hiện các nhiệm vụ, các tiêu chí của từng giai đoạn phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của địa phương. Vai trò của HĐND các cấp được thể hiện trong việc ban hành nghị quyết về xây dựng nông thôn mới nhằm thực hiện nghị quyết do cấp ủy ban hành; với những mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, giải pháp thực hiện cụ thể, rõ ràng. Vai trò của UBND các cấp được thể hiện trong xây dựng, trình HĐND quyết định chủ trương xây dựng nông thôn mới trên địa bàn; tổ chức thực hiện Nghị quyết của HĐND về xây dựng nông thôn mới; thành lập ban quản lý xây dựng nông thôn mới đến tổ chức xây dựng quy hoạch, đề án, kế hoạch tổng thể đầu tư hàng năm xây dựng nông thôn mới, lấy ý kiến của Nhân dân và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
(2) Đối với việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới: được thể hiện rõ thể hiện thông qua việc thành lập bộ máy chỉ đạo, điều hành. Xác định những công việc cần phải làm tiến hành, phân công cho các tổ chức, cá nhân đảm nhận những nhiệm vụ, mục tiêu, tiêu chí cụ thể của xây dựng nông thôn mới theo phương châm rõ người, rõ việc, rõ phương thức và rõ thời gian.
(3) Đối với việc huy động các nguồn lực trong xây dựng nông thôn mới: thực hiện phương châm và nguyên tắc xã hội hóa dựa trên cơ sở Nhà nước và Nhân dân cùng làm, cụ thể:
– Nhân dân làm chủ trong việc sáng tạo cách làm để thực hiện thành công các tiêu chí xây dựng nông thôn mới.
– Xã hội hóa trong việc xây dựng nông thôn mới là Nhân dân chủ động tự giác bỏ tiền, của và công sức lao động để làm, có sự hỗ trợ của Nhà nước mà chủ yếu là cơ chế chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương thực hiện tốt các tiêu chí theo quy định.
– Xã hội hóa để tạo ra chất lượng cho chính người dân địa phương hưởng lợi.
– Xã hội hóa phải gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Việc huy động bao gồm: tiền mặt; hiện vật (như đất đai, hoa màu và các tài sản gắn liền với đất…); ngày công lao động và các hình thức xã hội hóa khác. Việc huy động nguồn lực tài chính từ nhân dân không nóng vội chạy dẫn đến quá sức dân, luôn công khai, minh bạch trong sử dụng nguồn lực tài chính để tăng lòng tin của Nhân dân.
Ở nhiều địa phương, chính quyền xã phối hợp với các cấp, các ngành tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống người nông dân, cung cấp dịch vụ gắn với bình đẳng giới trong các hộ gia đình nông thôn; thực hiện các chính sách dân tộc, như định canh, định cư, phủ xanh đất trống đồi trọc, xóa đói, giảm nghèo; hỗ trợ hình thành các mô hình kinh tế mới, như: trang trại, làng sinh thái, làng nghề, làng nông nghiệp công nghệ cao…, thúc đẩy sự biến đổi về cơ cấu xã hội, liên kết xã hội ở nông thôn.
Chính quyền các xã tích cực tham gia xây dựng, củng cố và phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở, tạo điều kiện để người dân ở nông thôn nâng cao mức hưởng thụ, tham gia hoạt động và sáng tạo văn hóa; nâng cao chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hóa, ấp văn hóa, thực hiện các tiêu chí văn hóa trong xây dựng nông thôn mới; xây dựng con người, gia đình, cộng đồng nông thôn và môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, tạo động lực thúc đẩy phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Trong triển khai Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, chính quyền nhiều xã đã thực hiện việc công khai kịp thời các nội dung theo quy định, như: tình hình xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương; lấy ý kiến của Nhân dân về việc triển khai các chương trình, quy hoạch sử dụng đất đai, chương trình, dự án xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tiếp tục được cấp ủy, chính quyền nhiều xã thực hiện theo luật định. Nhận thức được tầm quan trọng của môi trường nông thôn, chính quyền nhiều xã đã chủ động lồng ghép việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức về bảo vệ môi trường trong mô hình xây dựng nông thôn mới, đồng thời cung cấp dịch vụ thu, gom rác thải thuận tiện cho người dân. Mặt khác, để công tác thu, gom rác thải đạt hiệu quả, nhiều xã đã chủ động thành lập các đội thu gom rác thải do Hội Phụ nữ hay Đoàn Thanh niên quản lý.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế trong phát huy vai trò của chính quyền cấp xã trong quá trình xây dựng nông thôn mới tại Thanh Hóa, cụ thể:
Một là, công tác chỉ đạo, điều hành thiếu tính chủ động, còn chung chung, thiếu tính cụ thể, nhiều địa phương lúng túng trong quá trình tổ chức thực hiện, chậm ban hành các chương trình, kế hoạch, hướng dẫn về các tiêu chí và trình tự, thủ tục xét, công nhận các tiêu chí nông thôn mới, chưa xác định rõ mục tiêu, lộ trình, giải pháp để xây dựng nông thôn mới.
Hai là, công tác kiểm tra, đánh giá, nhân rộng các mô hình, cách làm hay chưa được chú trọng thực hiện; chưa quan tâm chỉ đạo sát sao công tác đánh giá danh hiệu kiểu mẫu ở cơ sở.
Ba là, năng lực và hiệu quả quản lý điều hành của chính quyền cấp cơ sở chưa đáp ứng đòi hỏi của tình hình thực tiễn. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức về thực thi công vụ, trình độ chuyên môn còn hạn chế.
Bốn là, việc bố trí các nguồn lực bảo đảm cho hoạt động đánh giá danh hiệu kiểu mẫu còn chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, đánh giá nông thôn mới. Kinh phí để triển khai công tác xây dựng nông thôn mới chưa được bảo đảm.
Nguyên nhân của những hạn chế là do: (1) Năng lực, trình độ, trách nhiệm của tập thể chính quyền, người đứng đầu chính quyền; năng lực của một bộ phận công chức về thực thi công vụ một số nơi còn hạn ; (2) Hiệu quả quản lý và điều hành của chính quyền chưa đáp ứng đòi hỏi của tình hình thực; (3) Công tác tham mưu, phối hợp thực hiện của Mặt trận Tổ quốc các cấp và các tổ chức chính trị – xã hội có lúc chưa kịp thời; đội ngũ cán bộ Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội có nơi chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ, thiếu tính chuyên sâu, sự phối hợp của các cấp, các ngành, vai trò lãnh đạo của cấp ủy, sự điều hành phối hợp của chính quyền, sự phối hợp tham gia của các tổ chức xã hội, tổ chức quần chúng có lúc, có nơi chưa thường xuyên.
4. Một số giải pháp
Thứ nhất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của HĐND cấp xã trong xây dựng nông thôn mới.
Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu của cơ quan dân cử, là hoạt động tập trung cao trí tuệ của đại biểu HĐND. Tại kỳ họp sẽ thảo luận và thông qua các quyết định quan trọng, thực hiện các chức năng, thẩm quyền của HĐND về phát triển kinh tế – xã hội nói chung và về xây dựng xã nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu nói riêng.
Để hoạt động của các kỳ họp đạt kết quả cao, thường trực HĐND phối hợp với UBND xã chuẩn bị chương trình, xây dựng ban hành văn bản; đóng góp ý kiến về xây dựng chương trình giám sát trong năm. Trước các kỳ họp, cần rà soát các nội dung chuyên đề để điều chỉnh, bổ sung kịp thời vào nội dung kỳ họp; đồng thời, tổ chức hội nghị với UBND, Mặt trận Tổ quốc, các ban, ngành liên quan để thống nhất nội dung, chương trình kỳ họp.
Trên cơ sở nội dung, chương trình, thời gian đã được thống nhất, xây dựng kế hoạch tiếp xúc cử tri và họp tổ đại biểu trước kỳ họp. Trong hoạt động tiếp xúc cử tri, tăng cường tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, lồng ghép nội dung xây dựng xã nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu để thu hút được nhiều người tham gia, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tiếp xúc cử tri trước và sau mỗi kỳ họp. Thành lập các nhóm đại biểu phụ trách cụm dân triển khai tiếp xúc cử tri trước kỳ họp. Sau khi tổng hợp báo cáo và ý kiến cử tri, các đại biểu đều phải nghiên cứu kỹ các vấn đề chất vấn, đặc biệt là những vấn đề mà UBND xã chưa được giải quyết.
Định kỳ hằng năm, HĐND và đại biểu HĐND cấp xã phải báo cáo công khai với Nhân dân về các công việc đã làm liên quan đến thực hiện các tiêu chí xã nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu, đề nghị Nhân dân có ý kiến nhận xét, đánh giá; qua đó, phát huy quyền giám sát của Nhân dân đối với chính quyền cơ sở và đại biểu dân cử.
Thứ hai, nâng cao năng lực hoạt động của đại biểu HĐND cấp xã trong xây dựng xã nông thôn mới.
Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm của đại biểu HĐND cấp xã, nhất là phải dân chủ trong kỳ họp. Đại biểu HĐND cấp xã phải nhận thức rõ và đề cao trách nhiệm rằng, mọi vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐND, chỉ khi nào HĐND thảo luận dân chủ, nhất trí thông qua thì mới có giá trị hiệu lực thật sự, tránh tình trạng cấp ủy bao biện, làm thay, dẫn đến làm giảm hiệu lực của bộ máy nhà nước, của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Vì vậy, lãnh đạo cấp ủy, HĐND, UBND cấp xã phải thực sự dân chủ và cầu thị, phát huy vai trò, trách nhiệm của đại biểu, bảo đảm cho HĐND thực hiện quyền hạn của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, thực hiện tốt chức năng giám sát của HĐND cấp xã về xây dựng xã nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.
Giám sát là một trong các chức năng cơ bản của HĐND, có vai trò quan trọng trong việc chấp hành pháp luật và nghị quyết của HĐND trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng xã nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu. Để nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của Nhân dân, HĐND cần xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát cụ thể, thực hiện có hiệu quả các hình thức giám sát như giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của thường trực HĐND, các ban của HĐND, tổ đại biểu HĐND và các đại biểu HĐND; giám sát thực tế ở cơ sở, nhất là hoạt động nhằm tác động đến phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở địa phương và thực hiện các tiêu chí, danh hiệu trong xây dựng xã nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.
Mặt khác, tiếp tục tăng cường mối quan hệ phối hợp trong hoạt động giám sát. Thông qua việc xây dựng quy chế phối hợp giữa HĐND cấp xã với Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt trận Tổ quốc với UBND cấp xã trong việc xây dựng xã nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.
Thứ tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của UBND cấp xã trong xây dựng nông thôn mới.
(1) Nâng cao chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện đề án, kế hoạch xây dựng nông thôn mới của UBND cấp xã.
Trong xây dựng các đề án, kế hoạch xây dựng xã nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu có thể áp dụng một số kỹ năng như mô hình phân tích SWOT: Strengths (thế mạnh, lợi thế của địa phương, đơn vị); Weaknesses (điểm yếu, yếu thế, khó khăn của địa phương, đơn vị);Opportunities (cơ hội, những điểm có thể khai thác để giành lợi thế của địa phương, đơn vị); Threats (thách thức – các nhân tố có thể tác động tiêu cực đến địa phương, đơn vị, phải đối mặt, cần phải vượtqua). Mô hình tư duy 5W1H (what, where, when, why, who, how); kỹ năng làm việc nhóm; kỹ năng thuyết trình, thuyết phục…
Khi triển khai thực hiện các đề án, kế hoạch cần quan tâm đến việc phân công các nhiệm vụ theo hướng 3 rõ: rõ về chức trách, nhiệm vụ phải thực hiện; rõ về các nguồn lực và điều kiện thực hiện; rõ về sản phẩm và thời gian hoàn thành.
(2) Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành của UBND cấp xã trong xây dựng nông thôn mới.
Để nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành của UBND cấp xã trong xây dựng nông thôn mới, UBND cấp xã cần bổ sung chỉ tiêu xây dựng xã nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu vào kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hằng năm và theo giai đoạn của địa phương, trong đó xác định rõ mục tiêu và các giải pháp để thực hiện; đồng thời, ban hành kế hoạch, chương trình hành động, văn bản hướng dẫn cụ thể cho từng tiêu chí, từng doanh hiệu, tạo sự đồng thuận, thống nhất và chỉ đạo các đơn vị, bộ phận trực thuộc triển khai đến cán bộ, đảng viên và tầng lớp nhân dân.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quy chế làm việc và duy trì hoạt động theo quy chế. Trong đó, cần bổ sung các nội dung, quy định liên quan đến xây dựng nông thôn mới và đề cao được trách nhiệm cá nhân của từng thành viên UBND; trách nhiệm của chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp xã trong xây dựng nông thôn mới; phân công rõ trách nhiệm cho từng cán bộ, công chức chuyên môn phụ trách đối với từng tiêu chí và từng thôn trong triển khai thực hiện. Bảo đảm sâu sát, cụ thể, “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ quy trình, rõ hiệu quả”, “một việc, một đầu mối xuyên suốt”.
Tập trung sắp xếp tổ chức bộ máy, chỉ đạo đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính, đạo đức công vụ; thực hiện tốt quy chế thực hiện dân chủ; chú trọng công tác dân vận, tiếp xúc, đối thoại với Nhân dân; nâng cao tính công khai, minh bạch thông tin, cung cấp dịch vụ công tốt hơn cho người dân và doanh nghiệp đóng trên địa bàn.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục quan tâm tới chuyển dịch ngành, nghề, tạo việc làm cho người dân, phát trển bền vững kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh – quốc phòng, nâng cao đời sống người dân; hoàn thiện việc xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao và phát triển các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục – thể thao và thực hiện nếp sống văn minh, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Tiếp tục quan tâm, đầu tư cơ sở vật chất trường, lớp học cũng như trạm y tế trên địa bàn bảo đảm đạt chuẩn quốc gia.
Thường xuyên tiến hành tổ chức kiểm tra, rà soát, đánh giá việc thực hiện các tiêu chí để có những giải pháp chỉ đạo thực hiện bảo đảm tiến độ và chất lượng. Kịp thời biểu dương, tôn vinh các tập thể, cá nhân điển hình tiến tiến trong xây dựng xã nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu, từ đó tạo động lực để mọi người, mọi nhà cùng phấn đấu đạt các mục tiêu đề ra.
5. Kết luận
Qua kết quả xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Thanh Hóa cho thấy, chính quyền các xã đã nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của việc xây nông thôn mới ở các địa phương. Chính quyền cơ sở phát huy tốt vai trò, vị trí trung tâm trong việc trực tiếp tổ chức, điều hành quá trình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, hoàn thành chỉ tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XIX đề ra, góp phần xây dựng tỉnh Thanh Hóa trở thành tỉnh kiểu mẫu trong xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế – xã hội bền vững.
Chú thích:
1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008). Tài liệu hỏi – đáp các Nghị quyết Hội Nghị Trung ương bảy (khóa X). H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 49.
2. Thủ tướng Chính phủ (2010). Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020.
3. Thủ tướng Chính phủ (2014). Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 15/7/2014 về tăng cường chỉ đạo thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
4, 5. Ban Chỉ đạo các Chương trình Mục tiêu quốc gia tỉnh Thanh Hóa (2019). Báo cáo số 185/BC-BCĐ ngày 06/11/2019 tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020, tỉnh Thanh Hóa, tr. 1, 1.
6. Liên minh Hợp tác xã tỉnh Thanh Hóa (2024). Báo cáo số 301/BC-LMHTX ngày 12/7/2024 về tìnhhình kinh tế tập thể, hợp tác xã và hoạt động của Liên minh Hợp tác xã tỉnh Thanh Hóa 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2024.
7. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2024). Báo cáo số 244/BC-UBND ngày 11/10/2024 về tình hình thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025 trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
8. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2024). Báo cáo số 244/BC-UBND ngày 11/10/2024 về tình hình thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025 trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.