TS. Tạ Thị Liễu
Học viện Hành chính Quốc gia
(Quanlynhanuoc.vn) – Nhân kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 – 22/12/2024) và 35 năm “Ngày hội Quốc phòng toàn dân” (22/12/1989 – 22/12/2024), bài viết chọn lọc giới thiệu một số tài liệu lưu trữ về việc tổ chức thành lập quân đội, về sứ mệnh thiêng liêng và trách nhiệm lớn lao của quân đội đối với đất nước, với Nhân dân và những chặng đường vẻ vang của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Từ khóa: Tổ chức Quân đội; xây dựng; nền Quốc phòng Việt Nam; tài liệu lưu trữ.
1. Đặt vấn đề
Lịch sử quân sự Việt Nam xuất hiện từ buổi đầu dựng nước và có quá trình phát triển liên tục. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, dân tộc Việt Nam luôn nỗ lực sáng tạo và giành được những chiến công vang dội, lập nên những kỳ tích trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước. Dân tộc Việt Nam luôn bảo vệ đất nước bằng sức mạnh vô địch của toàn dân; kết hợp chặt chẽ chính trị với kinh tế, văn hóa, quân sự, ngoại giao, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để chiến thắng kẻ thù xâm lược. Kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo cách mạng, truyền thống lịch sử quân sự của dân tộc đã được kế thừa, phát triển lên một tầm cao mới, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quân đội ta từ Nhân dân mà ra, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức xây dựng, giáo dục, rèn luyện. Chặng đường anh hùng trong 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam đã tô thắm lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc, làm rạng rỡ thời đại Hồ Chí Minh.
2. Quân đội nhân dân Việt Nam – 80 năm xây dựng và trưởng thành
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện. Trải qua 80 năm xây dựng, phát triển đã kế thừa và phát huy truyền thống và kinh nghiệm đánh giặc của dân tộc, vừa chiến đấu vừa xây dựng, ngày càng phát triển và không ngừng trưởng thành.
2.1. Sự ra đời của Quân đội Nhân dân Việt Nam
Trong Luận cương Chính trị đầu tiên, Đảng ta đã khẳng định sự tất yếu phải tổ chức ra quân đội công nông để giành chính quyền. Vì vậy, khi vừa ra đời, trong phong trào cách mạng 1930 – 1931, Đảng đã chủ trương thành lập các Đội tự vệ đỏ (xích đỏ). Giai đoạn lịch sử từ năm 1940 – 1944, lần lượt các tổ chức vũ trang ra đời, như: Đội du kích Bắc Sơn, du kích Nam Kỳ, đội du kích Ba Tơ, đội Du kích Pắc Pó, Cứu Quốc quân. Sự phát triển mạnh mẽ, rộng khắp của phong trào đấu tranh vũ trang đòi hỏi phải có một đội quân chủ lực thống nhất về mặt tổ chức để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc.
Nhằm đáp ứng yêu cầu đó, tháng 12/1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giảng phóng quân, gồm: 34 chiến sĩ, biên chế thành 3 tiểu đội. Ngay sau khi thành lập, ngày 25/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã chiến thắng trận Phay Khắt, Nà Ngần mở đầu cho truyền thống đánh thắng ngay từ trận đầu của quân đội ta. Từ ngày thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân luôn phát triển và trưởng thành. Ngày 22/12/1944, được xác định là ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, đánh dấu sự ra đời của một tổ chức quân sự mới của dân tộc ta. Một quân đội của dân, do dân và vì dân; luôn gắn bó máu thịt với dân, luôn luôn được dân tin yêu, đùm bọc.
Tháng 4/1945, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang cả nước (Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Cứu Quốc quân và các tổ chức vũ trang khác) thành lập Việt Nam Giải phóng quân. Ngày 15/5/1945, sau buổi lễ thống nhất tại Định Hóa, Thái Nguyên, đồng chí Võ Nguyên Giáp được Trung ương phân công đảm nhận cương vị Tư lệnh các lực lượng vũ trang. Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân Tân Trào bầu ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng tức Chính phủ lâm thời do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Cùng ngày, lực lượng Giải phóng quân từ Tân Trào (Tuyên Quang) được lệnh di chuyển qua Thái Nguyên, mở đường tiến về Hà Nội, cùng cả nước tiến hành Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, giành độc lập dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, lực lượng vũ trang làm nòng cốt, hỗ trợ cho phong trào nổi dậy của quần chúng nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam giải phóng quân sau đó được đổi tên thành Vệ Quốc quân (Vệ Quốc đoàn). Ngày 22/5/1946, theo Sắc lệnh 71/SL của Chủ tịch nước, Vệ Quốc đoàn đổi tên thành quân đội Quốc gia Việt Nam, đặt dưới sự chỉ huy tập trung thống nhất của Bộ Tổng tham mưu. Quân đội tổ chức biên chế thống nhất theo trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội…
Ngày 24/9/1954, Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Quyết định số 400/TTg quy định “Quân đội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ nay gọi thống nhất là: Quân đội Nhân dân Việt Nam”. Tên gọi này được sử dụng cho đến ngày nay.
2.2. Quân đội Nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, chống thực dân Pháp xâm lược (1946 – 1954)
Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân ra đời đã phải đứng trước một tình thế vô cùng khó khăn, phức tạp. Vừa phải chống “giặc đói”, “giặc dốt” và các tệ nạn xã hội; vừa phải tập trung chống “giặc ngoại xâm” ngay từ đầu. Trước tình hình đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta đã làm nên lịch sử chiến thắng, góp phần bảo vệ vững chắc chính quyền nhân dân trong những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám (1945 – 1946).
Ngày 25/3/1946, Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký ban hành Sắc lệnh số 34-NV quy định về tổ chức của Bộ Quốc phòng và tiếp theo đó, ngày 19/7/1946, ban hành Sắc lệnh số 125/SLtrong quân đội lập một ngành “Hải quân Việt Nam”.
Với quyết tâm và tinh thần quyết thắng, quân đội ta đã lập nên Chiến thắng Việt Bắc, làm phá sản chiến lược “Đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp, bảo vệ cơ quan đầu não và căn cứ của cả nước, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp phát triển sang thời kỳ mới. Sau chiến dịch Việt Bắc, thực dân Pháp thực hiện âm mưu “bình định” đồng bằng Bắc Bộ, cô lập căn cứ địa Việt Bắc, Đảng ta chủ trương vừa đẩy mạnh chiến tranh du kích, vừa củng cố, xây dựng lực lượng, từng bước tiến lên đánh những trận phục kích, tập kích lớn hơn, tạo tiền đề của chiến tranh chính quy về sau.

Sắc lệnh số 76-SL của Chủ tịch Chính Phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 26/8/1947 tổ chức trong Quân đội Quốc gia Việt Nam một Đại Đoàn lấy tên là Đại Đoàn Độc lập1.

Sắc lệnh số 110-SL ngày 20/01/1948 của Chủ tịch Chính Phủ bổ nhiệm cấp Đại tướng đối với đồng chí Võ Nguyên Giám, Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ2.

Sắc lệnh số 111-SL ngày 20/01/1948 của Chủ tịch Chính Phủ bổ nhiệm cấp Thiếu tướng đối với các đồng chí Hoàng Văn Thái, Nguyễn Sơn, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm3.

Sắc lệnh số 112-SL ngày 20/01/1948 của Chủ tịch Chính Phủ bổ nhiệm cấp Thiếu tướng đối với các đồng chí Trần Tử Bình, Văn Tiến Dũng, Lê Hiến Mai4.
Trong bức thư ngày 15/9/1948 gửi các tướng sĩ Vệ quốc quân và dân quân, du kích Nam Bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “… Trong phong trào thi đua ái quốc, luyện quân lập công ngày nay, tôi mong sao các đồng chí cố gắng phát triển các ưu điểm, sửa chữa các khuyết điểm để làm cho bộ đội ta thật xứng đáng là bộ đội của một nước Dân chủ Cộng hòa, xứng đáng với nhiệm vụ vẻ vang là giải phóng Tổ quốc và bảo vệ nhân dân. Công trạng của các đồng chí đã được ghi vào sổ vàng của Tổ quốc. Các đồng chí hãy gắng lập công nhiều hơn và to hơn nữa”5.
Đáp lại sự quan tâm sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia, các đơn vị quân đội ra sức rèn luyện, học tập, vừa xây dựng, vừa chiến đấu, từng bước trưởng thành, vững vàng lớn mạnh, lập nhiều chiến công. Để động viên tinh thần binh lính, tướng sĩ và để ghi dấu nhắc nhở về truyền thống bất khuất kiên trung của các đội quân tiền bối của Quân đội ta, ngày 14/01/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh 163-SL thưởng tặng Huân chương Quân công hạng Nhất cho Đội Quân giải phóng, Đội quân Du kích Bắc Sơn, Đội quân Khởi nghĩa Nam Bộ.

Sắc lệnh số 163-SL của Chủ tịch Chính Phủ thưởng tặng Huân chương Quân công hạng Nhất cho Đội quân Giải phóng, Đội quân Du kích Bắc Sơn, Đội quân Khởi nghĩa Nam Bộ6.
Cuối năm 1949 và đầu năm 1950, trước tình hình thế giới có nhiều chuyển biến tích cực, có lợi cho cuộc kháng chiến của quân và dân ta, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ tích cực, chuẩn bị lực lượng để chuyển sang tổng phản công. Tháng 6/1950, ta mở chiến dịch Biên Giới, tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới Việt – Trung, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, khai thông đường liên lạc với các nước xã hội chủ nghĩa. Đầu tháng 9/1952, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Tây Bắc, nối thông được vùng giải phóng Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc và Thượng Lào. Ta giữ vững thế chủ động tiến công, làm thất bại âm mưu mở rộng chiếm đóng của địch. Trước những thay đổi trong cục diện chiến tranh ở Đông Dương và trên cơ sở đánh giá đúng tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch, tháng 9/1953, ta mở ra cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954. Thực hiện tư tưởng tiến công chiến lược, quân và dân ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, nắm quyền chủ động trên các chiến trường Đông Dương và làm phá sản âm mưu tập trung lực lượng cơ động của Na-va, buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó ở khắp nơi. Kế hoạch Na-va từng bước bị phá sản. Ngày 06/12/1953, đã mở ra chiến dịch Điện Biên Phủ.

Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp (ngoài cùng bên phải) cùng các đồng chí Phạm Văn Đồng, Trường Chinh báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, năm 1954 (Nguồn: Mục lục ảnh Kháng chiến chống Pháp 1945-1954, Trung tâm Lưu trữ quốc gia III).
Sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, giáng đòn quyết định, tạo bước ngoặt lịch sử làm thay đổi hẳn cục diện chiến tranh giữa ta và địch; trực tiếp đưa đến việc ký kết Hiệp địng Giơ-ne-vơ về “đình chỉ chiến sự ở Việt Nam”, lập lại hòa bình ở Đông Dương, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng tháng Tám. Quân đội ta trưởng thành vượt bậc về tư tưởng chính trị, lực lượng, tổ chức chỉ huy, trình độ tác chiến, trang thiết bị quân sự và bảo đảm hậu cần cho chiến dịch quân sự quy mô lớn chưa từng có; chấp hành nghiêm mệnh lệnh chiến trường, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, mưu trí, sáng tạo, dũng cảm hy sinh lập nhiều chiến công trên khắp chiến trường Đông Dương, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở chiến trường Điện Biên Phủ. Miền Bắc được giải phóng, trở thành hậu phương lớn, tạo cơ sở và điều kiện vững chắc để quân và dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
2.3. Quân đội nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954 – 1975)
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ 07/5/1954, Quân đội ta tiến về giải phóng Thủ đô 10/10/1954. Với vai trò là trụ cột bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình. Nhiệm vụ và phương châm lúc này là: Tích cực xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy, hiện đại.

Sắc lệnh số 061-SL ngày 10/4/1958 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa bổ nhiệm chức Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Quân huấn7.

Sắc lệnh số 9LCT ngày 3/3/1961 bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Giám đốc Học viện Quân chính và một số chức vụ quan trọng khác trong quân đội8.
Ở miền Nam, để đẩy mạnh đấu trang vũ trang, ngày 15/2/1961, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Từ năm 1961 – 1965, quân đội ta đã cùng đồng bào miền Nam đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt của Mỹ, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta bước sang một gia đoạn mới”; đồng thời được vinh dự nhận lời khen tặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 20 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 -22/12/1964: Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Từ năm 1965 – 1968, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cùng toàn dân đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ. Ở miền Nam, Quân đội ta vừa xây dựng, vừa chiến đấu và phát triển lực lượng, tiến công, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân quy mô lớn của Mỹ và quân đội Sài Gòn, đánh bại kế hoạch hai gọng kìm “tìm diệt” và “bình định” của địch.

Tại Sở chỉ huy Quân chủng Phòng không-Không quân, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp duyệt phương án chiến đấu bắn hạ pháo đài bay B52 không lực Hoa Kỳ tập kích Hà Nội năm 19729.
Đầu năm 1972, quân và dân ta mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, làm thay đổi so sánh lực lượng và thay đổi cục diện chiến tranh, dồn Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn vào thế yếu trầm trọng hơn. Trước nguy cơ đổ vỡ của quân đội Sài Gòn, ngày 06/4/1972, đế quốc Mỹ huy động một lực lượng lớn không quân và hải quân mở cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc lần thứ hai.
Với tinh thần dũng cảm, bằng cách đánh mưu trí, linh hoạt, quân và dân miền Bắc đã đánh thắng cuộc tập kích chiến lược lần thứ hai bằng B52 của Mỹ, lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không” tại bầu trời Hà Nội. Thắng lợi to lớn của quân và dân hai miền Bắc và Nam, buộc đế quốc Mỹ phải ký hiệp định Pari về “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” (27/01/1973), cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt dính líu về quân sự, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam.
Hiệp định Pari được ký kết, đế quốc Mỹ chưa chịu từ bỏ âm mưu chia cắt lâu dài nước ta. Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị về chủ trương giải phóng miền Nam, ngày 04/3/1975, Quân đội nhân dân Việt Namđã mở chiến dịch Tây Nguyên – mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Trên cơ sở những thắng lợi quyết định, ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, ngày 26/4/1975, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công đồng loạt vào các mục tiêu, phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch. Quân ta bắt toàn bộ nội các của chính quyền Sài Gòn, buộc Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Cờ Tổ quốc tung bay trước tòa nhà chính của dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã toàn thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch đồng quân, binh chủng quy mô lớn nhất, giành thắng lợi to lớn nhất, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam cả về tổ chức lực lượng và trình độ chỉ huy tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng; là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần quyết định kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
2.4. Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975 – 2024)
Quân đội nhân dân Việt Nam ra sức bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới và hải đảo của nước Việt Nam thống nhất. Đồng thời, tích cực tham gia sản xuất, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Cùng toàn dân đánh thắng hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia. Đẩy mạnh huấn luyện, xây dựng nền nếp chính quy, tham gia phát triển kinh tế- xã hội.
Qua gần 40 năm đổi mới, Quân đội nhân dân Việt Nam đã có những đóng góp xứng đáng vào những thành tựu chung của đất nước; nắm chắc và dự báo đúng tình hình liên quan đến quốc phòng – an ninh; chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách bảo vệ Tổ quốc, đối sách phù hợp, xử lý linh hoạt, đúng đắn các tình huống phức tạp, các vấn đề nhạy cảm về quốc phòng-an ninh, trong quan hệ đối nội và đối ngoại, không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược, đồng thời không để cho các thế lực thù địch lợi dụng, chống phá; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và quan hệ tốt với các nước láng giềng; bảo đảm sự ổn định chính trị-xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội nhanh, bền vững.
Trong thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, quân đội đã thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, duy trì và thực hiện tốt công tác sẵn sàng chiến đấu; tỉnh táo, chủ động và kiên quyết đấu trang phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và thành quả cách mạng của Nhân dân.
Trong thực hiện nhiệm vụ lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, quân đội đã đạt được những thành tựu mới trên tất cả các lĩnh vực. Trong công tác dân vận, quân đội đã góp phần tích cực trong việc tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường quốc phòng – an ninh, phát triển kinh tế-xã hội; tích cực giúp dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Trong công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, quân đội đã triển khai đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Trải qua 80 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, cùng với những chiến công mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc như những biểu tượng sáng ngời về một quân đội từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu, phục vụ, quân đội ta đã xây đắp nên những truyền thống cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”. Đó là: trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng; gắn bó máu thịt với Nhân dân, quân với dân một ý chí; đoàn kết nội bộ, cán bộ, chiến sĩ bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, thương yêu giúp đỡ nhau, trên dưới đồng lòng thống nhất ý chí và hành động; kỷ luật tự giác, nghiêm minh; độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, cần kiệm xây dựng quân đội, xây dựng đất nước, tôn trọng và bảo vệ của công; lối sống trong sạch, lành mạnh, có văn hóa, trung thực, khiêm tốn, giản dị, lạc quan; luôn luôn nêu cao tinh thần ham học, cầu tiến bộ, nhạy cảm, tinh tế trong cuộc sống; đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung, chí nghĩa, chí tình.
3. Ba lăm năm thực hiện ngày hội quốc phòng toàn dân (22/12/1989 – 22/12-2024)
Ngày 17/10/1989, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) đã ban hành Chỉ thị số 381-CT/TW quyết định lấy Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12), đồng thời là Ngày hội Quốc phòng toàn dân(Ngày hội của truyền thống bảo vệ Tổ quốc). Đây là dịp để phát huy truyền thống yêu nước, biểu dương sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chức Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, 35 năm thực hiện Ngày hội Quốc phòng toàn dân, tiếp tục xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng – an ninh vững chắc, nâng cao tiềm lực quốc phòng. Trong đó: (1) Tăng cường công tác quản lý nhà nước về quốc phòng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng, chất lượng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố; (2) Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng – an ninh – kinh tế – đối ngoại, đặc biệt, xây dựng các khu kinh tế -quốc phòng trên tuyến biên giới, vùng sâu, vùng xa, tạo thế trận quốc phòng- an ninh bảo vệ Tổ quốc; phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ở các địa bàn chiến lược; (3) Tổ chức các lực lượng vũ trang hợp lý, đồng bộ, cân đối giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, các quân binh chủng phù hợp với yêu cầu tác chiến mới; (4) Tiếp tục nâng cao chất lượng tổng hợp, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân.
Tổ chức Ngày hội quốc phòng toàn dân đã đạt được những thành tựu quan trọng sau đây:
Một là, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc của toàn xã hội và sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, an ninh Nhân dân.
Hai là, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ ngĩa, bảo đảm môi trường ổn định, hòa bình và an ninh cho sự phát triển đất nước; làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá các thế lực thù địch, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Ba là, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc được tăng cường, tăng thêm khả năng ngăn chặn và loại trừ nguy cơ chiến tranh và khả năng đối phó thắng lợi các tình huống chiến tranh và các tình huống xâm phạm an ninh quốc gia, nếu xảy ra.
Bốn là, hình thành thế chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh Nhân dân bảo vệ Tổ quốc được triển khai rộng khắp, chặt chẽ và liên hoàn; “thế trận lòng dân” được củng cố vững chắc.
Năm là, lực lượng vũ trang mà nòng cốt là Quân đội nhân dân có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, phát huy được vai trò trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
4. Kết luận
Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân, qua rất nhiều tài liệu lưu trữ cùng với các hoạt động là dịp để thế hệ ngày nay ôn lại lịch sử vẻ vang của dân tộc và những chiến công oanh liệt của quân và dân ta; khơi dậy niềm tự hào dân tộc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí tự lực, tự cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách; ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, là lực lượng chính trị tin cậy, quân đội chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới của cách mạng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội.
Chú thích:
1. Trung tâm Lưu trữ quốc gia III. Phông Phủ Thủ tướng, Hồ sơ 08.
2, 3, 4, 6, . Trung tâm Lưu trữ quốc gia III. Phông Phủ Thủ tướng, Hồ sơ 09.
5. Trung tâm Lưu trữ quốc gia III. Phông Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ, Hồ sơ 182.
7. Trung tâm Lưu trữ quốc gia III. Phông Phủ Thủ tướng, Hồ sơ 29.
8. Trung tâm Lưu trữ quốc gia III. Phông Phủ Thủ tướng, Hồ sơ 33.
9. Trung tâm Lưu trữ quốc gia II. Mục lục ảnh lịch sử Cách mạng 1945 – 1985.
Tài liệu tham khảo:
1. Viện Lịch sử Quân sự (2012). Lịch sử Quân sự Việt Nam. Tập 9. Hoạt động quân tự từ 1897 đến Cách mạng tháng Tám 1945. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Viện Lịch sử Quân sự (2012). Lịch sử Quân sự Việt Nam. Tập 10: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Viện Lịch sử Quân sự (2013). Lịch sử Quân sự Việt Nam. Tập 11: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
4. Trung tâm Lưu trữ quốc gia III (2015). Điện Biên Phủ – Một thiên sử vàng. H. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Truyền thống lịch sử Quân sự Việt Nam. Cổng thông tin điện tử Bộ Quốc Phòng bqp.vn; mod.gov.vn