Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

TS. Phan Thị Cẩm Lai
Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh sự tồn tại của các thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu là một đặc điểm tất yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong đó, kinh tế tư nhân được Người đánh giá là một lực lượng quan trọng, góp phần tạo việc làm và cải thiện thu nhập cho người lao động, thúc đẩy đổi mới kỹ thuật và nâng cao năng lực sản xuất. Tư tưởng kinh tế tư nhân của Người là kim chỉ nam cho công cuộc kiến thiết nước nhà trong buổi đầu độc lập; đồng thời, có giá trị lịch sử lớn lao, định hướng cho Đảng và Nhân dân trong quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh; định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế tư nhân; nền kinh tế thị trường; phát triển; Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 2001), tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nghiên cứu sâu sắc, toàn diện, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, phản ánh tầm vóc chiến lược và tính thực tiễn cách mạng sắc bén trong tư duy của Người. Với tầm nhìn toàn diện, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến các lĩnh vực kinh tế chính trị, kinh tế vĩ mô, quản lý kinh tế, kết hợp nội lực và ngoại lực để phát triển đất nước. Người chú trọng vai trò kinh tế tư nhân, khơi dậy tiềm năng của một lực lượng quan trọng trong sự nghiệp kiến thiết nước nhà nhằm tạo động lực thúc đẩy sản xuất và cải thiện đời sống Nhân dân. Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân mang giá trị lịch sử lớn lao, trở thành nền tảng quan trọng, định hướng cho Đảng ta kế thừa và phát huy trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, kinh tế tư nhân cần được định hướng phát triển dựa trên sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích dân tộc. Những di sản tinh thần này tiếp tục soi sáng con đường đổi mới, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công cuộc kiến thiết kinh tế ngay sau khi nước nhà giành độc lập. Sau thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong Thư gửi giới công thương Việt Nam đăng trên Báo Cứu quốc ngày 13/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “… giới Công – Thương phải hoạt động để xây dựng nền kinh tế và tài chính vững vàng, thịnh vượng. Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp giới Công – Thương trong công cuộc kiến thiết này”1. Quan điểm này thể hiện nhận thức của Người về vị trí, vai trò quan trọng của giới Công – Thương, đồng thời nhấn mạnh trách nhiệm của Nhà nước trong việc hỗ trợ giới Công – Thương đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.

Trong tác phẩm Thường thức chính trị (tháng 9/1953), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra cơ cấu thành phần kinh tế trong vùng tự do, trong đó có kinh tế tư nhân: “Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ, họ thường tự túc ít có gì bán và cũng ít khi mua gì. Đó là một thứ kinh tế lạc hậu. Kinh tế tư bản của tư nhân. Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần vào xây dựng kinh tế. Kinh tế tư bản quốc gia là Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do Nhà nước lãnh đạo. Trong loại này tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư bản. Tư bản của Nhà nước là chủ nghĩa xã hội”2. Như vậy, trong quan niệm của Người, kinh tế tư nhân được nhìn nhận dưới hai khía cạnh chính: (1) Kinh tế của cá nhân, nông dân và thợ thủ công (hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, cùng với khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình); (2) Kinh tế tư bản tư nhân (hình thức kinh tế mà sản xuất và kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, đồng thời bóc lột sức lao động làm thuê).

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, hợp tác giữa các thành phần kinh tế dựa trên nguyên tắc “công tư đều lợi”, vừa ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh làm nền tảng, vừa cải tạo các hình thức sở hữu khác để huy động tối đa nguồn lực. Kinh tế tư nhân phải phát triển hài hòa với mục tiêu quốc gia, hướng tới một nền kinh tế công bằng, bền vững và phục vụ lợi ích chung của xã hội. Người nhấn mạnh: “Công tư đều lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của nền kinh tế dân chủ mới… Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thợ thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc xây dựng kinh tế nước nhà”3. Quan điểm này thể hiện rõ tính linh hoạt và thực tiễn trong tư duy kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời phản ánh sự kết hợp dung hòa giữa các thành phần kinh tế khác nhau để tạo động lực thúc đẩy quá trình kiến thiết đất nước.

Sau năm 1954, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nền kinh tế lạc hậu, cơ sở vật chất yếu kém và nhiều khó khăn do chiến tranh tàn phá. Trước bối cảnh đất nước bị chia cắt và thách thức của tình hình quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích các hình thức sở hữu, xác định thành phần kinh tế, từ đó định hướng phát triển phù hợp với điều kiện lịch sử nước ta lúc bấy giờ. Trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa I, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tháng 12/1959), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ các hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất trong nước, bao gồm: “Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Sở hữu của người lao động riêng lẻ. Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”4. Như vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn tồn tại đa dạng các hình thức sở hữu, bao gồm: sở hữu công, sở hữu tư và sở hữu kết hợp nửa công nửa tư, phản ánh tính chất quá độ và sự chuyển đổi từng bước của nền kinh tế.

Tính đa dạng về các loại hình sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tất yếu tạo nên sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Trong chế độ dân chủ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định có 5 thành phần kinh tế chính, bao gồm: “A – Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân). B – Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội). C – Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội). D – Tư bản của tư nhân. E – Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh)”5. Người nhấn mạnh, không nên cưỡng ép hay duy ý chí xóa bỏ các thành phần kinh tế mà cần tạo điều kiện để phát triển, bởi các thành phần này có vai trò quan trọng trong cách mạng và sự phát triển kinh tế đất nước. Trong khi nhiều quốc gia xã hội chủ nghĩa khác, đặc biệt là Liên Xô, tập trung phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể làm thành phần chủ đạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rõ sự tồn tại khách quan và giá trị của các thành phần kinh tế khác. Người ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh như lực lượng chủ đạo, vừa tạo nền tảng vật chất, vừa định hướng các thành phần kinh tế khác, nhưng đồng thời cũng thừa nhận kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng trong thời kỳ quá độ. Người chỉ ra rằng, dù mang tính bóc lột, kinh tế tư nhân vẫn đóng góp đáng kể vào quá trình phát triển kinh tế. Vì thế, Nhà nước cần bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp, khuyến khích sản xuất trong khuôn khổ lợi ích quốc gia và từng bước hướng dẫn, cải tạo kinh tế tư nhân theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, các thành phần kinh tế đan xen, tác động lẫn nhau và cần được khai thác hiệu quả để phục vụ phát triển kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dựa trên nguyên tắc “cải tạo để sử dụng, sử dụng để cải tạo”. Người phản đối sự cưỡng ép trong cải tạo kinh tế tư nhân, đồng thời yêu cầu quá trình này phải tôn trọng quyền lợi chính đáng, dựa trên tình hình thực tiễn của khu vực này và thực hiện tuần tự, có lộ trình rõ ràng. Hồ Chí Minh khuyến khích các hình thức hợp tác như công tư hợp doanh để định hướng kinh tế tư nhân đi theo con đường xã hội chủ nghĩa một cách hài hòa và hiệu quả: “Đối với những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước”6. Đối với kinh tế cá thể, Người khẳng định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện”7. Đây là cách tạo điều kiện cho kinh tế cá thể phát triển bền vững, tạo tiền đề cho sự gắn kết hài hòa giữa lợi ích cá nhân và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế tư nhân trong xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay, Đảng ta đã kế thừa, phát triển và vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, đặc biệt là thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân trong bối cảnh đổi mới toàn diện nền kinh tế nước nhà. Tại Đại hội VI, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng ta đã chính thức thừa nhận sự tồn tại khách quan và vai trò của kinh tế tư nhân như một bộ phận hợp thành của nền kinh tế nhiều thành phần. Theo đó, Đảng nhấn mạnh: “Thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa và kinh tế tư bản tư nhân”8. Đây là bước đột phá trong tư duy của Đảng ta khi lần đầu tiên khẳng định khai thác tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân là cần thiết để thúc đẩy sản xuất, tạo việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. 

Giai đoạn từ Đại hội VII (năm 1991) –  IX (năm 2001) tiếp tục đánh dấu những bước tiến mới trong tư duy kinh tế của Đảng ta khi khẳng định phát triển kinh tế tư nhân vừa là giải pháp kinh tế, vừa là yếu tố chiến lược trong quá trình xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất ở nước ta. Kinh tế tư nhân được khuyến khích tham gia sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực kinh tế mà pháp luật không cấm. Đồng thời, Đảng nhấn mạnh hợp tác và liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong nước và quốc tế nhằm tận dụng tối đa các nguồn lực, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “… khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm… liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước ngày càng phát triển đa dạng”9

Đến Đại hội X (năm 2006), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế… Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng là một trong những động lực của nền kinh tế”10. Quan điểm này thể hiện sự đổi mới trong nhận thức và đánh giá cao vai trò của kinh tế tư nhân. Lần đầu tiên, khu vực này được chính thức công nhận là động lực thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế”11. Quan điểm này của Đảng ta tiếp nối tư duy của Đại hội X khi đề cao vai trò động lực của kinh tế tư nhân, đồng thời nhấn mạnh nhu cầu cần thiết phải xây dựng một hệ thống chính sách minh bạch, công bằng và hiệu quả nhằm hỗ trợ khu vực này phát triển, bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

Đến Đại hội XII (năm 2016), kinh tế tư nhân được chính thức xác định “… là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”12. Như vậy, Đại hội XII đã khẳng định, vai trò ngày càng quan trọng của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, nhất quán quan điểm triển khai các chính sách đồng bộ nhằm loại bỏ rào cản, định kiến, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và khuyến khích đổi mới sáng tạo cho các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân.

Đại hội XIII (năm 2021) đã đưa ra những định hướng mang tính chiến lược nhằm phát huy tối đa vai trò của kinh tế tư nhân. Đảng ta nhấn mạnh: “… tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế”13. Những chính sách này không chỉ tháo gỡ rào cản mà còn khơi dậy tiềm năng sáng tạo, giúp kinh tế tư nhân khẳng định vai trò quan trọng trong cung ứng hàng hóa, tạo việc làm, nâng cao đời sống và thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng động, bền vững trong thời kỳ hội nhập.

Nhờ những chính sách thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi, kinh tế tư nhân ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, năm 2024, chiếm hơn 42% GDP với mục tiêu tăng lên 55% vào năm 2025 và 60 – 65% vào năm 203014. Trong giai đoạn 2003 – 2015, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của khu vực này đạt 10,2%/năm, với số doanh nghiệp tăng từ 55.236 (năm 2002) lên 495.826 (năm 2015) và số hộ kinh doanh phi nông nghiệp tăng từ 2,6 triệu lên 4,6 triệu hộ. Tổng doanh thu của khu vực này cũng tăng 4,4 lần, từ 3,5 triệu tỷ đồng (năm 2007) lên 15,5 triệu tỷ đồng (năm 2015)15.

Trong giai đoạn 2016 – 2021, kinh tế tư nhân nổi lên như một trụ cột quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đóng góp gần 46% GDP và chiếm 98% số doanh nghiệp cả nước với hơn 800.000 đơn vị đang hoạt động. Đặc biệt, tỷ trọng đóng góp vào ngân sách nhà nước tăng đáng kể, từ 13,88% năm 2016 lên 18,5% năm 2021, cho thấy vai trò ngày càng lớn của khu vực này trong tài trợ các hoạt động công. Đồng thời, tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực này trong tổng vốn đầu tư xã hội đã tăng từ 51,3% năm 2016 lên 59,5% năm 202116, cho thấy vai trò dẫn dắt trong việc thúc đẩy các hoạt động đầu tư, đổi mới và phát triển bền vững. Năm 2024, khu vực này có hơn 930.000 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó 98% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, cùng khoảng 14.400 hợp tác xã và hơn 5 triệu hộ kinh doanh, tạo việc làm cho khoảng 85% lao động toàn quốc, đóng góp 30% ngân sách nhà nước17, cao gấp đôi khu vực FDI và vượt xa khu vực doanh nghiệp nhà nước.

Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian vừa qua còn bộc lộ nhiều hạn chế như: Cộng đồng doanh nghiệp tư nhân Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức. Phần lớn doanh nghiệp là nhỏ và siêu nhỏ, hạn chế về vốn, công nghệ và khả năng cạnh tranh, trong khi vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp lớn còn mờ nhạt với tỷ lệ tham gia chuỗi cung ứng thấp. Các doanh nghiệp gặp khó khăn từ biến động kinh tế toàn cầu, hạn chế trong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và tỷ trọng chế biến, chế tạo còn thấp. Môi trường pháp lý còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, tạo ra sự đối xử chưa công bằng khi ưu đãi thường tập trung vào doanh nghiệp nhà nước, còn doanh nghiệp tư nhân chịu nhiều rào cản và chi phí không chính thức. Những yếu tố này cản trở sự phát triển của kinh tế tư nhân, đòi hỏi cần phải cải cách đồng bộ để nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo đảm bình đẳng và thúc đẩy phát triển bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Để khắc phục những hạn chế trên của kinh tế tư nhân, trong thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau.

Thứ nhất, cần thống nhất nhận thức về vai trò chiến lược của kinh tế tư nhân là yếu tố quan trọng để định hướng chính sách, nâng cao hiệu quả và năng suất kinh doanh. Tuyên truyền sâu rộng các nghị quyết của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân, gắn với công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ nhằm ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực như “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, lợi ích nhóm và cạnh tranh không lành mạnh; từ đó, góp phần xây dựng môi trường kinh doanh minh bạch và bình đẳng.

Thứ hai, Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ 4.0, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh ngày càng gia tăng. Hệ thống pháp luật cần bảo đảm sự công bằng, loại bỏ các quy định lỗi thời và khuyến khích áp dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam. Ngoài ra, xây dựng môi trường đầu tư và kinh doanh minh bạch, an toàn và bình đẳng là yêu cầu quan trọng để khu vực này phát triển theo cơ chế thị trường và cạnh tranh lành mạnh. Cần khuyến khích thành lập doanh nghiệp mới, mở rộng kinh doanh trong các lĩnh vực hợp pháp, đồng thời rà soát, xóa bỏ những rào cản trong tiếp cận vốn, đất đai và các nguồn lực hỗ trợ khác.

Thứ ba, cần đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục, giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp, đặc biệt thông qua cơ chế “một cửa điện tử” và cải tiến các quy trình về thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội. Đồng thời, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước với bộ máy tinh gọn, minh bạch và trách nhiệm công vụ cao, kết hợp bố trí cán bộ có năng lực để hỗ trợ doanh nghiệp hiệu quả. Cần phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tăng cường giám sát, thanh tra và giải trình minh bạch, đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền Nghị quyết số 45/NQ-CP của Chính phủ ngày 31/3/2023 về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tạo sự đồng hành giữa chính quyền và doanh nghiệp.

Thứ tư, đẩy mạnh hỗ trợ phát triển doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt tập trung vào hai nhóm chính là doanh nghiệp khởi nghiệp và doanh nghiệp nhỏ và vừa, là yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. Đối với doanh nghiệp khởi nghiệp, cần xây dựng các chính sách hỗ trợ toàn diện về vốn, đất đai, công nghệ,… nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thành lập doanh nghiệp. Đồng thời, cần đơn giản hóa thủ tục hành chính, giúp doanh nghiệp dễ dàng gia nhập thị trường, cạnh tranh lành mạnh và tối ưu hóa hiệu quả tiêu thụ sản phẩm. Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần có các chính sách cụ thể và thiết thực để khắc phục những hạn chế về nguồn lực và khả năng tiếp cận thị trường. Loại bỏ các rào cản không cần thiết và mở rộng cơ hội tiếp cận các nguồn lực quốc gia là giải pháp quan trọng để doanh nghiệp phát huy tối đa tiềm năng, đóng góp mạnh mẽ hơn vào sự phát triển kinh tế.

Thứ năm, nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ, phát triển công nghiệp chế biến chế tạo và tăng năng suất lao động của kinh tế tư nhân. Theo đó, Chính phủ cần khuyến khích, đầu tư tập trung vào chính sách thúc đẩy giá trị gia tăng, sáng tạo, phát minh, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận, chuyển giao và ứng dụng khoa học – công nghệ phải được thực hiện theo lộ trình phù hợp để tích lũy kinh nghiệm, bí quyết và công nghệ, từ đó chuyển sang giai đoạn tự sáng chế. Đồng thời, cần tăng ngân sách cho nghiên cứu và phát triển (R&D), khuyến khích thành lập trung tâm nghiên cứu và đào tạo nhân lực khoa học – công nghệ, bảo đảm cơ chế bình đẳng trong nghiên cứu, ứng dụng và bảo hộ khoa học.

4. Kết luận

Chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, đặc biệt là kinh tế tư nhân, là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh và lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin trong công cuộc đổi mới. Từ chỗ không thừa nhận, Đảng ta đã xác định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, đóng vai trò thiết yếu trong huy động nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội. Việc kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người vào quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 53.
2, 3, 5. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 266, 267, 293 – 294.
4, 6, 7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 372, 373, 373.
8, 9, 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 47, 526, 634 – 635.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 101.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 25.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 103.
14. Doanh nghiệp tư nhân – Vị thế mới trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.https://baoyenbai.com.vn/12/330271/Doanh-nghiep-tu-nhan—Vi-the-moi-tr111ng-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc.aspx.
15. Tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển. https://qlg.mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin?dDocName=MOFUCM103714.
16. Phương Trang (2023). Kinh tế tư nhân: Đóng góp khả quan, lo toan tăng trưởng. Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp, số 4, tr. 44.
17. Sứ mệnh lớn của doanh nghiệp tư nhân. https://consosukien.vn/su-menh-lon-cua-doanh-nghiep-tu-nhan.htm.
Tài liệu tham khảo
1. Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/11/14/giai-phap-phat-trien-kinh-te-tu-nhan-thuc-su-tro-thanh-dong-luc-quan-trong-cua-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam/.
2. Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế. https://dangcongsan.vn/kinh-te/kinh-te-tu-nhan-la-dong-luc-quan-trong-cua-nen-kinh-te-436696.html.
3. Một số vấn đề lý luận – thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam. https://tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/mot-so-van-de-ly-luan-thuc-tien-ve-phat-trien-kinh-te-tu-nhan-o-viet-nam.