Tăng cường trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ tại TP. Hồ Chí Minh

ThS. Phạm Duy Cảnh
ThS. Châu Tiến Lộc
Học viện Hành chính Quốc gia

(Quanlynhanuoc.vn) – Trách nhiệm giải trình là một trong những vấn đề ngày càng được quan tâm nhằm hướng đến một nền công vụ hoạt động hiệu lực, hiệu quả và cũng là một chỉ số nội dung trong Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI). Dựa trên phân tích các tài liệu nghiên cứu liên quan tới trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ và từ thực tiễn việc thực hiện trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức tại TP. Hồ Chí Minh. Bài viết tập trung làm rõ những nội dung chính: (1) Khái quát một số vấn đề về trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ; (2) Đánh giá kết quả thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ tại TP. Hồ Chí Minh; (3) Gợi ý một số giải pháp tăng cường thực hiện các quy định về trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ tại TP. Hồ Chí Minh.

Từ khóa: Cán bộ; công chức; hoạt động công vụ; trách nhiệm giải trình; TP. Hồ Chí Minh.

1. Đặt vấn đề

TP. Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt của Việt Nam, đóng vai trò là thành phố “vì cả nước, cùng cả nước”. Với vai trò ngày càng quan trọng của chính quyền trong việc cung cấp dịch vụ công và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân, tăng cường trách nhiệm giải trình không chỉ giúp củng cố lòng tin của công dân vào chính quyền mà còn nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước. Trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ tạo ra cơ chế để công dân có thể theo dõi, đánh giá và phản hồi về các hoạt động của chính quyền. Sự phát triển bền vững của TP. Hồ Chí Minh không thể tách rời khỏi việc xây dựng một nền công vụ hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trong đó trách nhiệm giải trình đóng vai trò rất quan trọng, là một yếu tố then chốt trong nền công vụ, đặc biệt trong bối cảnh đô thị hóa nhanh chóng và sự phát triển mạnh mẽ của thành phố. Do đó, việc nghiên cứu và tăng cường thực hiện các quy định về trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ tại TP. Hồ Chí Minh là cần thiết để đáp ứng những thách thức mới và tạo ra một môi trường phục vụ tốt nhất cho người dân, cải thiện Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. 

2. Khái quát một số vấn đề về trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ

Trong một xã hội hiện đại, nền công vụ chỉ có thể hoạt động hiệu quả và thành công nếu tinh thần trách nhiệm được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu. Yêu cầu đặt ra trước các cơ quan quản lý nhà nước là phải tìm kiếm và áp dụng những phương pháp mới nhằm cung cấp dịch vụ công cộng tốt hơn và trách nhiệm hơn đối với cộng đồng. Mặt khác, mối quan tâm chính của công dân trong “một thành phố có chất lượng sống tốt” là chính quyền phải công khai, minh bạch, hiệu quả. Để một chính quyền được coi là tốt, các hệ thống và tiểu hệ thống quản trị của chính quyền ấy cần phải hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tiết kiệm, đạo đức và công bằng. Hơn nữa, quá trình quản lý cũng phải công bằng, hợp lý và thân thiện với công dân. Hệ thống quản lý cần bảo đảm tính trách nhiệm và khả năng phản hồi, đồng thời thúc đẩy tính minh bạch và sự tham gia của người dân.

Thước đo của quản trị tốt nằm ở việc thực thi hiệu quả các chính sách và chương trình nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Để quản trị tốt đồng nghĩa với việc cán bộ, công chức phải chịu trách nhiệm trước công dân, đồng thời khuyến khích sự tham gia của Nhân dân trong quá trình ra quyết định, thực hiện và đánh giá các dự án, chương trình và chính sách công. Tính minh bạch bảo đảm chongười dân biết chính xác những gì đang diễn ra và lý do cho các quyết định được đưa ra bởi chính quyền hoặc các công chức ở các cấp, các lĩnh vực khác nhau. 

Cán bộ, công chức luôn đóng vai trò then chốt trong việc bảo đảm sự liên tục và thay đổi trong quản lý. Tuy nhiên, cán bộ, công chức thường phải tuân thủ các quy tắc và quy trình được xây dựng dựa trên ý kiến tư vấn của họ. Chính “rule of law” (pháp trị) chứ không phải “rule of man” (nhân trị) thường bị chỉ trích vì những lạm dụng quyền lực và tham nhũng phổ biến trong đội ngũ cán bộ, công chức. Sự bùng nổ của các phương tiện truyền thông trong thời gian gần đây đã mở ra cơ hội cho việc giám sát cán bộ, công chức từ bên ngoài và yêu cầu thiết lập các cơ chế trách nhiệm giải trình minh bạch, tập trung vào kết quả và hiệu quả thay vì chỉ quy trình.

Các vấn đề liên quan đến trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức trong cung cấp dịch vụ đã trở thành tâm điểm trong tất cả các cuộc đối thoại về cải cách công vụ. Độ tin cậy của hệ thống công vụ phụ thuộc vào sự cải thiện rõ rệt về các dịch vụ cụ thể dành cho người dân, đặc biệt là ở vị trí tiên phong. Về mặt lý luận, theo một số nhà khoa học Việt Nam, trong khuôn khổ hoạt động của Nhà nước, trách nhiệm giải trình được hiểu là trách nhiệm của cơ quan công quyền đã nhận quyền lực từ Nhân dân và đặt ra mục tiêu thực thi quyền lực vì Nhân dân thì đồng thời có nghĩa vụ trả lời, lý giải và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình1. Về mặt pháp lý tại Việt Nam, trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức, người có trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ đã được đề cập nhiều trong văn bản pháp luật của Việt Nam2. Đặc biệt, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã củng cố các quy định về trách nhiệm giải trình, theo đó trách nhiệm giải trình được quy định là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền làm rõ thông tin, giải thích kịp thời, đầy đủ về quyết định, hành vi của mình trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao.

Trách nhiệm giải trình được PAPI tập trung vào việc phân tích dựa trên việc đánh giá khả năng giải thích hiệu quả của cán bộ, công chức về hoạt động tại địa phương ở cấp cơ sở. Trách nhiệm giải trình xem xét mức độ và hiệu quả của sự tiếp xúc giữa người dân và các cá nhân cũng như cơ quan có thẩm quyền để giải quyết các vấn đề cá nhân, gia đình, hàng xóm hoặc liên quan đến chính quyền địa phương; cũng như về việc xử lý khiếu nại và tố cáo của người dân. Trách nhiệm giải trình cũng xem xét về mức độ phổ biến và hiệu quả của các cơ chế dân cử để yêu cầu chính quyền địa phương chịu trách nhiệm đối với các chương trình và dự án triển khai ở cấp xã, phường (Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư cộng đồng), dựa trên quan điểm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng” và Luật Thực hiện dân chủ cơ sở năm 2022 với ba chỉ số thành phần cơ bản (bảng 1).

Bảng 1. Các chỉ số thành phần trong chỉ số nội dung trách nhiệm giải trình với người dân (PAPI)

TTChỉ số thành phầnNhiệm vụ
1Hiệu quả tương tác với các cấp chính quyền– Đo lường hiệu quả của các cuộc tiếp xúc công dân của các cấp chính quyền theo quy định của Luật Tiếp công dân năm 2013 số 42/2013/QH13. 
2Giải đáp khiếu nại, tố cáo, khúc mắc của người dân– Phản ánh về tính chủ động của công dân trong việc khiếu nại, tố cáo và mức độ hiệu quả của chính quyền trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, giúp đánh giá phần nào hiệu quả thực thi Luật Khiếu nại năm 2011 số 02/2011/QH13 và Luật Tố cáo năm 2011 số 03/2011/QH13.
3Tiếp cận dịch vụ tư pháp– Đánh giá mức độ tin tưởng vào tòa án và cơ quan tư pháp địa phương, việc tiếp cận tòa án địa phương hoặc các cơ chế phi tòa án khi người dân cần giải quyết các tranh chấp dân sự. 
Nguồn: CECODES, RTA & UNDP, năm 2024

Tóm lại, trách nhiệm giải trình có vai trò rất quan trọng đối với kết quả làm việc trong khu vực công vì đây là một trong những cơ sở quan trọng để đánh giá tinh thần phụng sự Nhân dân, khả năng sử dụng các nguồn lực được cung cấp một cách hiệu lực, hiệu quả của cán bộ, công chức. 

2. Thực tiễn việc thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ tại TP. Hồ Chí Minh

TP. Hồ Chí Minh có 01 thành phố trực thuộc, 21 quận, huyện; 312 phường, xã thị trấn với 9.591.581 người dân; mật độ dân số của thành phố 4.578 người/ km2. Hiện tại, thành phố có tổng cộng 117/312 phường, xã, thị trấn, có dân số từ 30.000 người trở lên, hơn gấp hai lần với quy định về quy mô dân số theo tiêu chuẩn của phường là 15.000 dân trở lên theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính. 

Đáng chú ý, một số phường và xã có dân số gần 100.000 người. Tính đến năm 2023, thành phố có tổng cộng 19.545 cán bộ, công chức, 93.160 viên chức đang làm việc3. Sau khi thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-HĐND ngày 14/3/2024 của Hội đồng nhân dân TP. Hồ Chí Minh về thành lập, chia tách, sáp nhập, đổi tên khu phố, ấp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, Thành phố có 3.654 khu phố, 1.207 ấp, còn khoảng 43.749 người hoạt động không chuyên trách tại các khu phố, ấp (3). Ngoài ra, toàn thành phố hiện có 192 ban giám sát đầu tư ở cộng đồng với 1.344 thành viên4

TP. Hồ Chí Minh đã triển khai nhiều cơ chế để thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ. Tiêu biểu, ngày 04/12/2017, Ủy ban nhân dân (UBND) TP. Hồ Chí Minh đã ban hành Chỉ thị số 15/CT-UBND về việc tăng cường thực hiện các quy định về trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ; việc ban hành Chỉ thị đã góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước, trách nhiệm của người thực thi công vụ, vừa phát huy vai trò giám sát của cơ quan, tổ chức, đoàn thể và Nhân dân đối với hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức góp phần thiết thực trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. 

Từ thực tiễn kết quả việc triển khai Chỉ thị số 15/CT-UBND, về công tác tiếp công dân, trong giai đoạn 2018 đến quý 1 năm 2024: tổng lượt tiếp công dân là 211.706, trong đó lãnh đạo tiếp 36.739, đoàn đông người là 29 đoàn; trong đó năm 2018 có số lượt tiếp công dân cao và số lượt lãnh đạo tiếp (bao gồm tiếp định kỳ và tiếp đột xuất) cao nhất; năm 2023 có số lượt tiếp đoàn đông cao nhất. Trong đó, giai đoạn 2020 đến quý I năm 2024, số lượng tiếp nhận đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền đã xử lý trong kỳ 157.538/157.765, đạt 99,86%; kết quả giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền là 3.980/4.793 đơn, đạt 83,04%. Kết quả giải quyết đơn tố cáo thuộc thẩm quyền 523/613 đơn, đạt 85,04%5.

Về trách nhiệm lắng nghe và ghi nhận những phản hồi từ người dân, trong giai đoạn 2022 – 2023, Hội đồng nhân dân TP. Hồ Chí Minh phối hợp với Đài Truyền hình TP. Hồ Chí Minh, Đài Tiếng nói Nhân dân TP. Hồ Chí Minh tổ chức diễn đàn đối thoại với người dân thông qua tổ chức Hội nghị tiếp xúc cử tri thanh niên, chương trình “Lắng nghe và trao đổi”, chương trình “Dân hỏi – Chính quyền trả lời”, chương trình “Đối thoại cùng chính quyền Thành phố”; bên cạnh các hoạt động tiếp xúc cử tri theo chuyên đề, ngành, giới, bảo đảm công khai, dân chủ, khách quan. Hội đồng nhân dân Thành phố đã ban hành Đề án “Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân TP. Hồ Chí Minh trong điều kiện thực hiện chính quyền đô thị nhiệm kỳ 2021 – 2026”. 

Hằng năm, mỗi địa phương của TP. Hồ Chí Minh đều thực hiện ít nhất từ 3 cuộc đối thoại với Nhân dân6. Việc này không chỉ giúp chính quyền điều chỉnh các chính sách cho phù hợp với thực tiễn mà còn tạo ra một môi trường tương tác tích cực giữa chính quyền và cộng đồng. Chính vì vậy, việc xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa cán bộ, công chức và người dân là thông tin tin hữu ích cho cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ. Ngoài ra, việc lắng nghe ý kiến của người dân trên mạng xã hội cũng là một phương thức để cán bộ, công chức thu thập phản hồi hoặc đề xuất của người dân nhanh chóng, hiệu quả. 

Về lĩnh vực Tư pháp, trong năm 2023, Tòa án nhân dân 2 cấp TP. Hồ Chí Minh đã thụ lý 67.685 vụ việc (với tỷ lệ hơn 10% tổng số án cả nước), giải quyết 58.181 vụ việc, đạt 85,96%. Trong đó, án dân sự thụ lý 20.621 vụ việc, giải quyết 14.213 vụ việc, đạt 68,92%; án hôn nhân và gia đình thụ lý 25.882 vụ việc, giải quyết 24.923 vụ việc, đạt 96,29%,… Về công tác hòa giải, đối thoại, Tòa án nhân dân 2 cấp TP. Hồ Chí Minh hai cấp đã thực hiện hòa giải thành 6.644 vụ trong tổng số 46.368 đơn chuyển sang thủ tục hòa giải và vụ án đã xét xử, đạt tỷ lệ 14%7

Với tỷ lệ giải quyết vụ việc cao của Tòa án nhân dân hai cấp Thành phố, người dân có thể cảm thấy an tâm hơn về khả năng của tòa án trong việc xử lý nhanh chóng và công bằng các vụ việc của mình. Tuy nhiên, ở tỷ lệ giải quyết án dân sự chỉ đạt 68,92%, cho thấy một số thách thức trong việc xử lý các tranh chấp dân sự và có thể làm giảm niềm tin của người dân vào khả năng của tòa án trong lĩnh vực này, đặc biệt khi họ cần giải quyết các vấn đề quan trọng liên quan đến quyền lợi cá nhân. Ngoài ra, tỷ lệ hòa giải thành chỉ đạt 14% trong tổng số đơn chuyển sang thủ tục hòa giải cho thấy nhiều tranh chấp vẫn phải qua xét xử. Điều này có thể khiến người dân cảm thấy không hài lòng và có thể dẫn đến việc họ tìm kiếm các phương thức giải quyết khác ngoài tòa án. Mức độ tin tưởng của người dân vào tòa án và cơ quan tư pháp địa phương có thể chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, bao gồm hiệu quả xử lý vụ việc, sự minh bạch và khả năng tiếp cận. 

Trên cơ sở đo lường, khảo sát từ kinh nghiệm của người dân, Báo cáo Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) lần thứ 15 – PAPI 2023 đã đánh giá điểm trục nội dung “Trách nhiệm giải trình với người dân” gồm ba nội dung thành phần: (1) Hiệu quả tương tác với các cấp chính quyền, (2) Giải đáp khiếu nại, tố cáo, khúc mắc của người dân, (3) Tiếp cận dịch vụ tư pháp, số điểm của Thành phố đạt 4.30 điểm/10 điểm, không bị giảm điểm, tiếp tục nằm trong nhóm có điểm trung bình cao so với năm 2022. Trong đó, chỉ duy nhất một nội dung “Giải đáp khiếu nại, tố cáo, khúc mắc của người dân” tăng điểm nhưng vẫn thấp so với các tỉnh, thành, các nội dung còn lại đều giảm hoặc không tăng điểm (biểu đồ 2).

Bảng 2. So sánh trục nội dung trách nhiệm giải trình với người dân của PAPI của TP. Hồ Chí Minh qua các năm so với 63 tỉnh, thành phố.

 Năm2018Năm2019Năm2020Năm2021Năm2022Năm2023
Điểm4.665.044.84.324.304.30
Xếp hạng(56/63)(22/63)(42/63)(28/60)(32/61)(27/61)
Nguồn: CECODES, RTA & UNDP, năm 2024

Trách nhiệm giải trình với người dân là chỉ số nội dung Thành phố bị giảm điểm liên tục từ năm 2019 – 2022. Năm 2023, Thành phố không bị giảm điểm và giữ được vị trí nhóm trung bình cao trong khi phần lớn các tỉnh, thành phố trong khu vực đều bị sụt giảm điểm nội dung này. Trong thời gian tới, Thành phố cần nỗ lực thực hiện nhiều chương trình, mô hình giải pháp để tăng sự tương tác giữa chính quyền với người dân. Khi có khúc mắc, người dân có xu hướng tiếp cận cán bộ, công chức UBND phường, xã, thị trấn hơn đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp, tương tự kết quả khảo sát các năm trước. Người dân phản hồi ít hài lòng với phúc đáp họ nhận được sau khi gửi đơn, thư đến các cấp chính quyền. Ngoài ra, cũng cần nhìn nhận vai trò trách nhiệm, sự chủ động cần tăng cường hơn nữa của các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế phối hợp với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong tuyên truyền, phổ biến quy định pháp luật về trách nhiệm giải trình cho các thành viên và Nhân dân; vận động Nhân dân nắm rõ thông tin, đồng hành với chính quyền địa phương.

3. Một số giải pháp

Thứ nhất, cải thiện tương tác với người dân trực tiếp và trên không gian mạng. 

Trưởng khu phố, ấp, cán bộ, công chức UBND phường, xã tiếp tục là kênh thường trực quan trọng trong giải quyết các vấn đề khi người dân tiếp xúc để báo cáo và tìm kiếm sự hỗ trợ. Do đó, chính quyền các cấp cần tăng cường công tác thông tin kết quả giải quyết các đơn thư, kiến nghị, tố giác, tố cáo, khiếu nại của người dân. Bên cạnh đó, sử dụng công nghệ số để thiết lập hệ thống để theo dõi, quản lý và phản hồi các ý kiến, khiếu nại từ người dân (ứng dụng “Công dân số thành phố Hồ Chí Minh” của UBND TP. Hồ Chí Minh và phần mềm “Lắng nghe mạng xã hội” – HCMC Social Beat của Sở Thông tin – Truyền thông TP. Hồ Chí Minh) gắn việc công khai, minh bạch thông tin phản ánh, phản hồi với trách nhiệm giải trình của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, hướng đến hiện đại hóa và số hóa mối quan hệ tương tác hữu hiệu giữa chính quyền và người dân để cải thiện điểm số PAPI bền vững trong các năm tiếp theo của thành phố. 

Thứ hai, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức, đảng viên, đoàn viên, hội viên, nhất là người đứng đầu các cấp.

Người đứng đầu, cán bộ, công chức phải thấy được trách nhiệm của mình, phải nắm chắc từng nội dung cụ thể trong thực hiện, trách nhiệm giải trình, giải quyết phản ánh, kiến nghị của người dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong tuyên truyền, phổ biến quy định pháp luật về trách nhiệm giải trình cho các thành viên và Nhân dân, có tinh thần chủ động trong việc tuyên truyền, vận động Nhân dân nắm rõ thông tin, đồng hành với chính quyền địa phương. Cần tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Đề án “Nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Nhân dân giám sát tổ chức đảng, đoàn viên và hoạt động của chính quyền các cấp TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2020 – 2030”; khảo sát, đánh giá hiệu quả, chất lượng giải quyết quy trình, thủ tục hành chính, hướng dẫn về cách thức tiếp nhận và xử lý các vướng mắc, khiếu nại, tố cáo, giải quyết tranh chấp dân sự phi tòa án của người dân. 

Thứ ba, hoàn thiện các quy định về giải trình chủ động của tổ chức, cá nhân. 

Cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về giải trình chủ động của tổ chức, cá nhân gắn với Nghị định số 73/2023/NĐ-CP ngày 29/9/2023 của Chính phủ quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Hiện nay, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã quy định tại Điều 11 về các hình thức công khai liên quan đến tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Tuy nhiên, quy định này chỉ áp dụng trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng. Do đó, để hoàn thiện quy định về trách nhiệm giải trình chủ động của các tổ chức và cá nhân trong thực thi công vụ nói chung, cần xem xét các quy định về trách nhiệm giải trình chuyên biệt, trong đó, điều chỉnh Điều 1 Nghị định số 90/2013/NĐ-CP ngày 08/8/2013 của Chính phủ8 theo hướng mở rộng phạm vi về trách nhiệm giải trình. Việc này không chỉ nên thực hiện khi có yêu cầu mà còn cần được thực hiện khi các chủ thể nhận thấy cần thiết hoặc có nhu cầu thực hiện về trách nhiệm giải trình. Ngoài ra, cũng cần thiết lập một cơ chế đồng bộ để kết nối giữa trách nhiệm giải trình và khuyến khích cán bộ, công chức năng động, sáng tạo, từ đó tạo ra sự minh bạch và hiệu quả trong quản lý nhà nước.

Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra.

Ngành Thanh tra cần thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định về trách nhiệm giải trình của các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý và của Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn theo quy định của Nghị định số 59/2013/NĐ-CP ngày 17/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng, các quy định của pháp luật về thanh tra và một số quy định khác có liên quan. Tăng cường kiểm tra việc giải quyết nhóm thủ tục hành chính trong các lĩnh vực đất đai, xây dựng, chứng thực và thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của các phường, xã, thị trấn không để xảy ra tình trạng hồ sơ quá hạn do lỗi chủ quan, đùn đẩy trách nhiệm trong quá trình giải quyết hồ sơ dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết thủ tục hành chính.

4. Kết luận 

Việc thực hiện hiệu quả trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ phải lấy “yếu tố con người” với ý thức tự đổi mới, xác định phục vụ cá nhân, doanh nghiệp là mục tiêu hướng tới và chủ động đề xuất sáng kiến, giải pháp, trên nền tảng tinh thần “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”. Để xây dựng niềm tin của người dân vào khu vực công, TP. Hồ Chí Minh cần có những giải pháp đồng bộ, bền vững và sáng tạo, bảo đảm trách nhiệm giải trình được thực hiện một cách hiệu quả, thực chất và phù hợp với nguyện vọng của người dân, nhằm hiện thực hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” gắn với công khai, minh bạch. Chỉ khi đó, chính quyền Thành phố mới có thể thực sự phục vụ lợi ích chung và từng bước hoàn thiện nền công vụ Thành phố hoạt động hiệu lực, hiệu quả để phụng sự người dân và kiến tạo phát triển; đồng thời, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “muốn làm, làm được, được làm”. 

Chú thích:
1. Hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm giải trình. https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/05/06/hoan-thien-quy-dinh-phap-luat-ve-trach-nhiem-giai-trinh.
2. Nguyễn Quốc Sửu (2022). Về trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ ở Việt Nam.Tạp chí Quản lý nhà nước số 313, tháng 2/2022, tr. 43 – 48.
3. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2023). Báo cáo chuyên đề số 527-BC/TU ngày 03/10/2023 về “Thực trạng và nhiệm vụ, giải pháp chấn chỉnh, khắc phục tình trạng né tránh, đùn đẩy, làm việc cầm chừng, sợ trách nhiệm không dám làm trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức thuộc phạm vi quản lý, phụ trách”.
4, 5, 6. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2024). Báo cáo Tổng kết 25 năm thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
7. Năm 2023, tỉ lệ giải quyết vụ án của TPHCM đạt gần 86%. https://tphcm.chinhphu.vn/nam-2023-ti-le-giai-quyet-vu-an-cua-tphcm-dat-gan-86-101231227142336355.htm
8. Chính phủ (2013). Nghị định số 90/2013/NĐ-CP ngày 08/8/2013 quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao
Tài liệu tham khảo:
1. CECODES, RTA & UNDP (2024). Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở  Việt Nam (PAPI): Đo lường từ kinh nghiệm thực tiễn của người dân, năm 2023. https://congbo2023.papi.org.vn/wp-content/uploads/2024/04/PAPI2023_REPORT_VIE.pdf.
2. Hội đồng nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2023). Báo cáo số 500/BC-HĐND ngày 06/7/2023 về sơ kết việc thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân TP. Hồ Chí Minh trong điều kiện thực hiện chính quyền đô thị, nhiệm kỳ 2021 – 2026”.
3. TP Hồ Chí Minh sắp xếp lại mô hình tổ chức với 3.654 khu phố và 1.207 ấp. https://www.qdnd.vn/xa-hoi/tin-tuc/tp-ho-chi-minh-sap-xep-lai-mo-hinh-to-chuc-voi-3-654-khu-pho-va-1-207-ap-768557.
4. Sở Nội vụ TP. Hồ Chí Minh (2024). Báo cáo số 2600/BC-SNV ngày 15/4/2024 về Kết quả Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) năm 2023 của Thành phố.