Vũ Duy Đại
Học viện Chính trị, Bộ Quốc Phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Đội ngũ doanh nhân Việt Nam có vị trí, vai trò quan trọng, là một trong những lực lượng nòng cốt góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, công tác xây dựng đội ngũ doanh nhân vẫn còn một số hạn chế nhất định. Trước bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay với nhiều yêu cầu mới đặt ra, đòi hỏi cần có các giải pháp tổng thể để xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam.
Từ khoá: Giải pháp, xây dựng, đội ngũ doanh nhân, doanh nhân Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Đội ngũ doanh nhân Việt Nam được xem là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế – xã hội, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, nâng cao vị thế của nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế. Với sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước cùng nhiều chính sách hỗ trợ, tạo động lực đã được ban hành và thực thi, đến nay đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên nhiều phương diện.
2. Thực trạng xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam hiện nay
Nhìn lại gần 40 năm đổi mới của đất nước, đội ngũ doanh nhân Việt Nam không ngừng phát triển cả về số lượng, chất lượng và trở thành lực lượng nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước, có những đóng góp to lớn, quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên nhiều phương diện. Đa số doanh nhân Việt Nam thành lập doanh nghiệp xuất phát từ yêu cầu thực tế của cuộc sống và khát vọng làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội; họ vừa làm vừa học và trưởng thành từ hoạt động sản xuất – kinh doanh. Ra đời, phát triển trong xã hội không có truyền thống kinh doanh; mặc dù còn thiếu tác phong kinh doanh chuyên nghiệp, thiếu kinh nghiệm thương trường quốc tế và sự liên kết chặt chẽ nhưng nhìn chung doanh nhân Việt Nam cần cù, ham học hỏi, cầu tiến; có ý chí lập nghiệp, khát vọng làm giàu, dám chấp nhận rủi ro, thách thức; nhạy cảm về chính trị, yêu nước, tự cường, có trách nhiệm cao với cộng đồng, dân tộc…
Đội ngũ doanh nhân Việt Nam nhìn chung còn hạn chế về kiến thức. Theo kết quả điều tra do Tổng cục Thống kê công bố năm 2007: tỷ lệ doanh nhân có trình độ trên đại học là 2,25%, đại học: 40,2%, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp: 16,98%, dạy nghề dài hạn: 3,96%. Cũng theo kết quả điều tra này, tỷ lệ doanh nhân mới tốt nghiệp phổ thông trung học và chưa có bằng phổ thông trung học là 36,6%1. Doanh nhân Việt Nam nhìn chung chưa được đào tạo một cách bài bản, trình độ học vấn, trình độ ngoại ngữ thấp. Số lượng doanh nhân được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quản trị kinh doanh còn rất ít, thiếu kinh nghiệm để tự tin khi đàm phán, ký kết các hợp đồng với đối tác nước ngoài mà chủ yếu là trưởng thành từ thực tiễn kinh doanh trong các mô hình kinh tế nhỏ. Do đó, khi hợp tác giao dịch với các đối tác nước ngoài, nhiều doanh nhân gặp không ít khó khăn, như: sơ hở trong thương thảo hợp đồng thương mại, thiếu hiểu biết luật lệ… của các nước nên phải trả giá khá đắt trong đàm phán liên doanh với các đối tác nước ngoài.
Một số doanh nhân Việt Nam còn thiếu năng lực kinh doanh, kinh nghiệm quản lý, khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam nhìn chung còn thiếu tầm nhìn xa, thiếu chiến lược kinh doanh và thiếu tính chuyên nghiệp. Trình độ quản trị, sự hiểu biết về môi trường kinh doanh và pháp luật kinh doanh quốc tế còn hạn chế. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam chưa có sự hợp tác, liên kết chặt chẽ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Một bộ phận doanh nhân còn mang nặng tâm lý sản xuất nhỏ, ít hợp tác với nhau để giảm rủi ro, giảm chi phí kinh doanh, chưa chú trọng liên kết hay hợp tác đầu tư kinh doanh quy mô lớn nhằm bổ sung thế mạnh cho nhau.
Một bộ phận doanh nhân Việt Nam thiếu văn hoá kinh doanh và trách nhiệm xã hội, chưa tự giác tuân thủ pháp luật. Doanh nhân Việt Nam chưa xây dựng được văn hóa doanh nhân mang bản sắc dân tộc. Vẫn còn một bộ phận doanh nhân chưa tuân thủ đúng pháp luật, thiếu trách nhiệm xã hội, có những hành vi xấu làm phương hại đến lợi ích của chính doanh nghiệp, cộng đồng và xã hội. Đa số doanh nhân chưa biết chắt lọc, phát huy bản sắc tốt đẹp của văn hóa dân tộc trong hoạt động quản lý, kinh doanh. Một số doanh nhân trẻ hoặc do tự tin thái quá nên có tâm lý không thực tế hoặc vì thiếu tự tin nên tâm lý mặc cảm…
Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách về khuyến khích và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế tư nhân. Trong tiến trình đó, đội ngũ doanh nhân hình thành và phát triển như là một lực lượng xã hội mới, từng bước vươn lên đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, trong xã hội vẫn còn có những quan điểm chưa thống nhất, còn có nhận thức chưa đầy đủ, rõ ràng về vai trò, vị thế của đội ngũ doanh nhân. Vai trò của doanh nhân trong việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta cũng chưa được xác định rõ. Vị thế của đội ngũ doanh nhân trong hệ thống cơ cấu xã hội mới ở nước ta chưa được xác định rõ nét…
Về mặt tư tưởng, tâm lý nhất là trong một số lãnh đạo các cấp vẫn còn e ngại kinh tế tư nhân nói chung và doanh nghiệp tư nhân, doanh nhân nói riêng. Vì vậy, một số chủ trương, chính sách chậm được đổi mới. Chủ trương cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân phải mất rất nhiều năm nghiên cứu, thảo luận đến Đại hội X (năm 2006) mới quyết định được. Trong giai đoạn từ năm 1986 – 2010, giai đoạn khởi đầu của kinh tế tư nhân và bước đầu hình thành đội ngũ doanh nhân. Đặc điểm của giai đoạn này là kinh tế tư nhân “được phép” làm những điều mà pháp luật không cấm. Từ sau năm 2010, kinh tế tư nhân bắt đầu bước sang giai đoạn mới là một trong những lực lượng chủ lực của nền kinh tế, doanh nhân là đội quân xung kích trong công cuộc đổi mới đất nước.
3. Một số giải pháp xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam
Nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém, tháo gỡ những khó khăn, thúc đẩy đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng phát triển lớn mạnh, thực sự trở thành lực lượng nòng cốt của quá trình đổi mới, Đảng đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/12/2011 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế góp phần xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh.
Thứ nhất, tạo môi trường kinh doanh thực sự bình đẳng và thuận lợi cho doanh nhân phát triển.
Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp, doanh nhân là yêu cầu cấp thiết để phát triển doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân. Hoạt động của doanh nhân và doanh nghiệp luôn gắn liền với nhau như một thể thống nhất. Nếu coi mỗi doanh nghiệp là một con thuyền của nền kinh tế thì doanh nhân là người chèo lái. Khi các doanh nghiệp vận hành, hoạt động tốt thì nền kinh tế tăng trưởng, phát triển có hiệu quả nhưng hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh và tài năng của người đứng đầu doanh nghiệp. Vì vậy, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân chính là tạo điều kiện để xây dựng và phát triển đội ngũ doanh nhân.
Thực tiễn đổi mới ở nước ta trong những năm vừa qua cho thấy, ở địa phương nào có môi trường đầu tư thuận lợi thì sẽ thu hút được nhiều hơn đầu tư trong và ngoài nước, kinh tế tăng trưởng cao. Do đó, cải thiện môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh là biện pháp quan trọng để phát triển doanh nghiệp, doanh nhân. Ổn định, cải thiện môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh đòi hỏi phải thực thi nhiều giải pháp đồng bộ về kinh tế – xã hội, chính trị, luật pháp.
Thực hiện cải cách hành chính mạnh mẽ và thực chất. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế, bảo đảm cho những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được thực thi nghiêm túc và tạo sự minh bạch, công khai trong hoạt động kinh doanh và thúc đẩy khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, hiệu quả; hệ thống pháp luật và chính sách phải nhằm mục tiêu bảo vệ và tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nhân; đặc biệt là luật pháp phải bảo vệ được quyền và lợi ích, tài sản chính đáng, hợp pháp của doanh nhân.
Rà soát lại hệ thống các văn bản pháp luật, nhất là các nội dung liên quan đến các hoạt động kinh doanh, loại bỏ những quy định gây khó khăn, rủi ro cho doanh nhân. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu và các luật có liên quan theo hướng đơn giản hóa các thủ tục hành chính, công khai mọi quy trình cấp phép hoạt động và giải thể doanh nghiệp, thủ tục đăng ký kinh doanh, đầu tư, nộp thuế. Điều chỉnh, bổ sung nâng cao chất lượng quy hoạch, chính sách phát triển các ngành, vùng, sản phẩm.
Xây dựng cơ chế bảo vệ doanh nghiệp, doanh nhân, hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội để trợ giúp doanh nghiệp giải quyết các vấn đề xã hội; nâng cao trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc chăm lo điều kiện làm việc và đời sống của người lao động; bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Tổ chức tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức Nhà nước trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro cho doanh nhân, làm cho họ nhận thức rõ trách nhiệm góp phần xây dựng đất nước.
Tăng cường các hoạt động an ninh, tình báo kinh tế, đấu tranh phòng chống tội phạm trên lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực công nghệ cao để bảo vệ lợi ích hợp pháp của các doanh nhân; trao đổi cung cấp thông tin về đối thủ cạnh tranh, đối tác, bạn hàng cho các doanh nhân, nhất là những thông tin liên quan đến rủi ro của doanh nghiệp. Cần sớm có các quy định cụ thể về cơ chế phối hợp thông tin, xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong cung cấp và sử dụng các thông tin nhằm giảm bớt rủi ro cho doanh nhân.
Cải cách triệt để các doanh nghiệp Nhà nước,đưa các doanh nghiệp Nhà nước, kể cả các tập đoàn kinh tế Nhà nước vào hoạt động trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trên thương trường. Đây là một trong những việc quan trọng nhất phải làm nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực của đất nước, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước và các sản phẩm, các ngành mà họ nắm giữ; mặt khác tạo cơ hội cho các doanh nghiệp khu vực tư nhân cạnh tranh bình đẳng để phát triển. Thực hiện việc này cũng góp phần chống tham nhũng, chống các lợi ích nhóm có thể tác động xấu tới các chính sách, gây bất lợi cho sự phát triển của đất nước.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ doanh nhân; xây dựng văn hóa doanh nhân trong thời đại mới.
Thời đại ngày nay là thời đại của trí tuệ, thời đại của nền kinh tế tri thức. Việc phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh không còn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, vào sự may mắn nữa. Ngày nay, kinh doanh đã trở thành một nghề, doanh nghiệp muốn phát triển, doanh nhân muốn đứng vững trên thương trường phải có kiến thức cơ bản về tự nhiên, kinh tế, văn hoá và xã hội, về kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt là về tổ chức, quản trị doanh nghiệp, về thị trường, về ngoại ngữ… Để có được những kiến thức đó, doanh nhân phải được đào tạo một cách bài bản. Tuy nhiên, đội ngũ doanh nhân Việt Nam mới ra đời trong một thời gian rất ngắn, chưa được đào tạo một cách bài bản, trình độ quản trị kinh doanh, khả năng ngoại ngữ còn rất hạn chế. Vì vậy, để xây dựng đội ngũ doanh nhân phát triển nhanh về số lượng và có chất lượng cao, một mặt, bản thân doanh nhân phải tự đào tạo, đồng thời rất cần có sự hỗ trợ có hiệu quả của Nhà nước.
Trước hết các doanh nghiệp, doanh nhân cần có nhận thức đúng về yêu cầu nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của bản thân doanh nhân và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp về quản trị kinh doanh, về ngoại ngữ, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức về pháp luật, về kinh doanh trong điều kiện hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp cần chủ động đánh giá năng lực và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhân viên của doanh nghiệp; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực của doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và phát triển doanh nghiệp.
Các doanh nhân cần chủ động không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ của mình góp phần xây dựng hình ảnh người doanh nhân, trí thức trong thời đại mới vừa có bản lĩnh, năng lực lãnh đạo quản lý doanh nghiệp, vừa có trình độ học vấn cao và có kỹ năng quản trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với các trường đại học, các cơ sở đào tạo; tích cực tham gia vào quá trình đào tạo ở các trường đại học, các cơ sở đào tạo, như: xây dựng nội dung chương trình, phương pháp đào tạo, tham gia giảng dạy, báo cáo chuyên đề… tạo điều kiện để các trường đại học, các cơ sở đào tạo gửi sinh viên, học viên và giảng viên đến làm việc, tham quan khảo sát.
Bên cạnh đó, xây dựng văn hoá doanh nhân cũng góp phần rất quan trọng cho sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng, của nền kinh tế nói chung. Xây dựng văn hoá doanh nhân là đưa các nhân tố văn hoá và hoạt động kinh doanh, tạo lập và hoàn thiện phương thức kinh doanh của từng doanh nhân, doanh nghiệp phù hợp với văn hoá Việt Nam, văn minh trên thế giới, mang lại hiệu quả cao và bền vững. Xây dựng văn hoá doanh nhân là một nội dung rất rộng lớn, liên quan đến rất nhiều khía cạnh như chính sách của Đảng và Nhà nước đối với doanh nghiệp, doanh nhân, môi trường kinh doanh, trình độ phát triển của nền kinh tế, thể chế kinh tế, chính trị, đặc điểm của văn hoá dân tộc, vấn đề giáo dục và đào tạo, trình độ và nhận thức của doanh nhân… Vì vậy, xây dựng văn hoá doanh nhân trước hết là trách niệm của bản thân từng doanh nhân, đồng thời cũng là trách nhiệm của xã hội và toàn bộ hệ thống chính trị.
Xây dựng những chuẩn mực mới về doanh nhân trong xã hội và trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là doanh nhân có lòng yêu nước, có tinh thần dân tộc, có trách nhiệm với cộng đồng và xã hội, có văn hóa kinh doanh, hiểu biết về văn hóa và pháp luật kinh doanh. Tuyền truyền, giáo dục, tôn trọng và tôn vinh doanh nhân bằng những hoạt động thiết thực. Tăng cường và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền nhằm tiếp tục thay đổi nhận thức của xã hội đối với doanh nhân, tạo hình ảnh doanh nhân một cách chân thực, sống động, hướng doanh nhân không ngừng hoàn thiện mình để trở thành những doanh nhân chân chính.
Xây dựng văn hoá ứng xử doanh nghiệp phù hợp với nền văn hoá Việt Nam. Trong quan hệ lao động, thực hiện đúng các quy định của pháp luật, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh trong sản xuất, kinh doanh dựa trên nguyên tắc nhân ái, bình đẳng nhằm tạo ra một môi trường sản xuất – kinh doanh khuyến khích sự sáng tạo, vì sự tiến bộ và phát triển của mọi người lao động trong doanh nghiệp. Bình đẳng ở đây là sự bình đẳng trong cơ hội học tập, cống hiến, thăng tiến và phát triển, khác với chủ nghĩa bình quân, cào bằng lẫn lộn giữa người tài và người yếu kém. Sự bình đẳng còn được thể hiện trong kỷ luật và trách nhiệm của mọi người trong kinh doanh, đi liền với khuyến khích đổi mới, sáng tạo là trật tự, kỷ cương, chế độ trách nhiệm và chế tài nghiêm minh.
Trong quan hệ sản xuất – kinh doanh, doanh nhân phải xây dựng chữ “tín” với đối tác và khách hàng. Xây dựng chữ “tín” phải được đặt trọng tâm trong toàn bộ hoạt động kinh doanh, trong đàm phán với đối tác, bảo đảm hài hoà về lợi ích của doanh nghiệp, của đối tác và xã hội. Điều đó thể hiện ở chỗ doanh nhân có trách nhiệm, như: giao hàng đúng hợp đồng, đúng chất lượng sản phẩm, quảng cáo đúng sự thật, hướng dẫn khách hàng tiêu dùng đạt được lợi ích tối đa. Đó là những phẩm chất rất quan trọng, thể hiện năng lực tổ chức và đạo đức của doanh nhân.
Văn hoá doanh nhân còn thể hiện ở việc kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Mục đích của kinh doanh là lợi nhuận và kinh doanh chỉ thực sự là hành vi có văn hoá khi nó được đặt trong khuôn khổ pháp luật và chỉ trong khuôn khổ ấy mới bảo đảm việc kinh doanh lâu bền. Để đạt được điều đó ngoài việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật trong kinh doanh thì hệ thống pháp luật phải thực sự khoa học, đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi thực tế đời sống kinh tế. Hệ thống pháp luật phải rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu đối với tất cả doanh nhân, tránh tình trạng chung chung nhưng phải bao quát hết mọi khía cạnh của hoạt động kinh doanh, từng lĩnh vực và không tạo khoảng trống để kinh doanh trái luật, lách luật.
Thứ ba, khơi dậy và phát huy tinh thần kinh doanh trong toàn xã hội, tôn vinh doanh nhân.
Tinh thần doanh nghiệp là một trong những điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Từ ngàn đời nay, do chịu ảnh hưởng các luồng tư tưởng phong kiến, quan niệm “trọng nông, ức thương”, “nhất sĩ, nhì nông” đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi tầng lớp nhân dân. Thời đại ngày nay, sự phát triển của một quốc gia phụ thuộc và tinh thần dám làm, dám mạo hiểm, dám kinh doanh của đội ngũ doanh nhân, tương lai đất nước gắn liền với năng lực cạnh tranh, đổi mới sáng tạo. Vì vậy, để khơi dậy và phát huy tinh thần kinh doanh của doanh nhân cần thực hiện tốt một số nội dung sau đây:
(1) Khơi dậy và phát huy khát vọng, quyết tâm đổi mới đất nước là một nhiệm vụ cấp bách. Tư tưởng đề cao và tôn vinh thực sự các doanh nhân cần được thấm sâu và từng con người Việt Nam, từ những người lãnh đạo cao cấp đến những con người bình thường trong xã hội. Nuôi dưỡng và phát huy tinh thần kinh doanh trong toàn xã hội cần được coi là một trong những động lực để đổi mới, phát triển đất nước.
(2) Phát huy tinh thần doanh nghiệp cho doanh nhân và toàn xã hội, xây dựng xã hội kinh doanh. Tinh thần doanh nghiệp là một khái niệm đang được tranh luận và được hiểu khác nhau nhưng có những khía cạnh chung là: dám chấp nhận rủi ro; có đầu óc sáng tạo; có tính độc lập… Với những khía cạnh chung này cho thấy, chỉ có những doanh nhân có tinh thần doanh nghiệp mới có lòng tự tin vào năng lực bản thân, mới có bản lĩnh và quyết đoán; không cam chịu số phận và luôn muốn thay đổi hoàn cảnh; không hài lòng với thực tại; chấp nhận rủi ro và có tinh thần sáng tạo cao. Đây là những phẩm chất và tính cách rất cần cho các doanh nhân. Nó không hoàn toàn là yếu tố có tính bẩm sinh mà cần phải thông qua đào tạo và huấn luyện mới hình thành được. Giáo dục tinh thần doanh nghiệp khởi nghiệp để hình thành và phát triển đội ngũ doanh nhân đủ sức thích ứng và cạnh tranh quốc tế góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước. Do đó, cần phải thường xuyên bồi dưỡng lý tưởng, đạo lý, triết lý làm giàu cho các thế hệ người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ để họ trở thành những doanh nhân thực thụ của Việt Nam có đủ năng lực và bản lĩnh cạnh tranh với các doanh nhân trên thế giới.
(3) Có chính sách tôn vinh doanh nhân, nhất là doanh nhân trong khu vực kinh tế tư nhân. Phát huy vai trò của doanh nhân trong tư vấn, hoạch định chính sách kinh tế – xã hội. Khẳng định và có cơ chế để tiếp thu ý kiến đóng góp của đội ngũ doanh nhân, coi đó là một trong những kênh phản biện quan trọng nhất để giúp Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Thường xuyên lắng nghe và giải quyết kịp thời nguyện vọng chính đáng của doanh nhân, tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động sản xuất – kinh doanh, làm giàu hợp pháp để doanh nhân đóng góp ngày càng nhiều cho công cuộc xây dựng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
(4) Xây dựng hình ảnh đẹp của doanh nhân trong xã hội. Đa số doanh nhân Việt Nam cần cù chịu khó, năng động, sáng tạo và có nhiều đóng góp cho xã hội. Các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ chức văn hóa, nghệ thuật cần xây dựng hình ảnh đẹp về doanh nhân, đưa những hình mẫu đẹp của doanh nhân thế giới và doanh nhân Việt Nam đến với công chúng.
4. Kết luận
Xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam được xem là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế – xã hội, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, nâng cao vị thế của nền kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế. Để xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế cần thực hiện tốt các giải pháp nêu trên, mỗi giải pháp có vị trí, vai trò khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau. Vì vậy, cần phải thực hiện đồng bộ giải pháp để xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam thật sự vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
Chú thích:
1. Tổng cục Thống kê (2017). Doanh nghiệp Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ (2000 -2014). H. NXB Thống kê, tr. 496.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2011). Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/12/2011 về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2016). Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
3. Trần Quốc Dân (2008). Doanh nghiệp, doanh nhân và văn hoá. H. NXB Chính trị quốc gia.
4. Hoàng Văn Hoa (2010). Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020. H. NXB Chính trị quốc gia.
5. Lưu Vinh (2007). Doanh nhân Việt Nam. H. NXB Giao thông vận tải.