Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) ở khu vực Tây Nguyên – những vấn đề đặt ra

TS. Lê Văn Từ
Học viện Hành chính Quốc gia

(Quanlynhanuoc.vn) – Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của các tỉnh của khu vực Tây Nguyên trong những năm gần đây mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn ở mức thấp và rất thấp so với mức bình quân chung của cả nước. Bài viết nêu các yếu tố ảnh hưởng, từ đó chỉ ra những vấn đề cần giải quyết nhằm cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh ở khu vực Tây Nguyên.

Từ khóa: Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI); chỉ số; môi trường đầu tư; khu vực Tây Nguyên.

1. Đặt vấn đề

Chỉ số năng lực canh tranh cấp tỉnh hay PCI (viết tắt của Provincial Competitiveness Index) là chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành phố của Việt Nam về chất lượng điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp dân doanh1

PCI là một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư của các doanh nghiệp dân doanh và các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Chỉ số PCI không đơn thuần để đánh giá, xếp hạng, mà còn là kênh phản ánh về khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp, giúp cho chính quyền địa phương có góc nhìn sâu hơn về mức độ thực thi và hiệu quả hoạt động, từ đó, thúc đẩy việc cải cách môi trường kinh doanh và cải thiện chất lượng điều hành kinh tế theo hướng tốt hơn. PCI cũng giúp cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đang tìm kiếm cơ hội đầu tư, cân nhắc đầu tư hoặc mở rộng hoạt động kinh doanh tại các địa phương ở Việt Nam2

Theo kết quả về thứ hạng chỉ số PCI tại các tỉnh Tây Nguyên từ năm 2019 – 2023 cho thấy, môi trường kinh doanh ở các địa phương của khu vực này chưa được cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư đánh giá cao; thứ hạng chỉ số PCI chậm được cải thiện, thậm chí có tỉnh còn xuống hạng, như: Đắk Lắk, Gia Lai và Lâm Đồng. Tuy nhiên, hai tỉnh là Đắk Nông và Kon Tum có điều kiện không thuận lợi về vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng và quy mô thị trường so với các tỉnh khác lại có sự cải thiện chỉ số PCI rất ấn tượng trong 2 năm trở lại đây. Bài viết làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số PCI của các tỉnh khu vực Tây nguyên, thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc cải thiện môi trường kinh doanh ở khu vực Tây Nguyên.

2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng về môi trường đầu tư ở khu vực Tây Nguyên 

Khi doanh nghiệp quyết định đầu tư vào một địa phương, ngoài việc xem xét kỹ những lợi thế cạnh tranh khác biệt mang tính khách quan và tương đối ổn định, như: vị trí địa lý, hạ tầng, quy mô thị trường thì còn quan tâm đến những yếu tố chủ quan liên quan đến việc nỗ lực thúc đẩy cải cách hành chính và chất lượng quản lý điều hành kinh tế của chính quyền địa phương cấp tỉnh nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong đầu tư lâu dài, hiệu quả.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, mức độ hài lòng của các doanh nghiệp về môi trường đầu tư không chỉ đến từ các địa phương kinh tế phát triển, ở các đô thị lớn mà còn được tạo ra từ các địa phương có những nỗ lực cải cách hành chính để cải thiện môi trường đầu tư cũng như sự năng động của lãnh đạo chính quyền địa phương. 

Nghiên cứu của Huỳnh Thị Thúy Giang (2021) về mối quan hệ giữa chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các địa phương Việt Nam đã chỉ ra 6 yếu tố ảnh hưởng đến môi trường đầu tư là: tiếp cận đất đai; chi phí thời gian; chi phí không chính thức; cạnh tranh không bình đẳng; sự năng động của lãnh đạo; dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp3. Nghiên cứu của Huỳnh Thanh Nhã (2017), phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) về môi trường đầu tư tại tỉnh Tiền Giang đã chỉ ra 6 nhân tố ảnh hưởng, bao gồm: nguồn nhân lực; chi phí đầu vào cạnh tranh; cơ sở hạ tầng; môi trường sống và làm việc; lợi thế ngành và chế độ, chính sách. Trong nghiên cứu của Đặng Thị Thu Vân và cộng sự đã chỉ ra 5 yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của nhà đầu tư trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk: thương hiệu địa phương; chế độ, chính sách; chất lượng dịch vụ công; lợi thế ngành và chi phí đầu vào4.

Mỗi địa phương có những yếu tố chủ quan và khách quan thu hút các nhà đầu tư khác nhau. Đối với các tỉnh khu vực Tây Nguyên, các yếu tố ảnh hưởng mang tính đặc trưng ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư, gồm:

(1) Cơ sở hạ tầng: so với một số địa phương trong cả nước, cơ sở hạ tầng vùng Tây Nguyên nhìn chung còn thiếu và yếu, đặc biệt là hạ tầng giao thông (chưa có đường sắt và giao thông thủy), y tế, giáo dục và hạ tầng số, thông tin liên lạc, hệ thống điện cung ứng, hệ thống cấp thoát nước5. Một số tuyến quốc lộ đang xuống cấp trầm trọng hoặc quá tải, như: Quốc lộ 27, Quốc lộ 26… mặc dù các tỉnh đang gấp rút hoàn thành một số tuyến đường cao tốc, như: Tân Phú – Bảo Lộc; Bảo Lộc – Liên Khương; Dầu Giây – Liên Khương; Quy Nhơn – Pleiku, Khánh Hòa – Buôn Ma Thuột; Gia Nghĩa – Chơn Thành. Do vậy, yếu tố cơ sở hạ tầng có tác động không thuận lợi đến thu hút đầu tư và phát triển kinh tế của các địa phương vùng Tây Nguyên.

(2) Chế độ, chính sách và thủ tục hành chính: đây là yếu tố tác động trực tiếp đến sự hài lòng của doanh nghiệp về môi trường đầu tư. Nếu chế độ, chính sách tốt và thủ tục hành chính đơn giản, nhanh gọn, có sự hỗ trợ rõ ràng, thuận lợi và công bằng của chính quyền địa phương sẽ tăng lợi thế cạnh tranh, thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào địa phương.

Trên thực tế hiện nay, nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp tại Tây Nguyên kém phát triển do hạn chế về địa lý, kết cấu hạ tầng và chất lượng nguồn nhân lực, có tỷ lệ bỏ trống còn cao và thu hút được vốn đầu tư ít. Có thể chỉ ra nguyên nhân của hạn chế này là: chưa có sự đồng thuận cao của hệ thống chính trị về khuyến khích, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân phát triển trên địa bàn Tây Nguyên; việc quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa gắn với phát triển cơ sở hạ tầng, như: giao thông, điện nước, thông tin, logistics; chưa có cơ chế, chính sách đặc thù với khu vực Tây Nguyên trong mối quan hệ với các vùng trong cả nước, như: ưu đãi về thuế, tín dụng, hỗ trợ đầu tư, đất đai, phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính ở một số tỉnh ở Tây Nguyên còn tồn tại phức tạp, thiếu minh bạch, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc khởi nghiệp và mở rộng hoạt động6.

(3) Chất lượng nguồn nhân lực: chất lượng nguồn nhân lực và đào tạo, phát triển nghề nghiệp ở địa phương ảnh hưởng lớn đến sự hài lòng và quyết định đầu tư của các doanh nghiệp. So với các khu vực khác trong cả nước, Tây Nguyên có nguồn nhân lực tương đối phong phú nhưng trình độ và tay nghề còn thấp, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn cao, các chính sách về đãi ngộ và đào tạo phát triển nghề nghiệp chưa được chú trọng đúng mức.

(4) Về tính cạnh tranh, cơ hội thị trường, vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên: đây là những yếu tố thuận lợi mang tính khách quan tạo ra tính cạnh tranh và sự hài lòng của doanh nghiệp khi quyết định đầu tư vào địa phương. Tây Nguyên có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, đất đai màu mỡ, khí hậu thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, năng lượng tái tạo. Tây Nguyên có nhiều ngành nghề đặc thù có sức cạnh tranh cao như sản xuất nông sản, chế biến và xuất khẩu nông sản. Về vị trí nằm ở điểm kết nối thị trường giữa miền Trung, miền Nam và các quốc gia ASEAN.

3. Thực trạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh ở khu vực Tây Nguyên

Trong những năm qua, các tỉnh ở khu vực Tây Nguyên đã có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện chỉ PCI, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi nhằm thu hút đầu tư, tuy nhiên, việc cải thiện chỉ số này còn chậm, tăng giảm theo các năm và không đồng đều giữa các địa phương.

Nhìn vào bảng xếp hạng PCI cho thấy, mức xếp hạng PCI của các tỉnh Tây Nguyên ở mức thấp và rất thấp so với mức bình quân chung của cả nước. Cụ thể trong năm 2019 và năm 2021, chỉ có tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Gia Lai được xếp hạng từ vị trí 30 trở xuống, năm 2020 và năm 2022, chỉ còn tỉnh Lâm Đồng và đến năm 2023, chỉ có tỉnh Đắk Nông bứt phá lên vị trí thứ 21, còn các tỉnh khác đều ở thứ hạng rất thấp.

So sánh sự biến đổi thứ hạng PCI giữa các tỉnh cho thấy, tỉnh Đắk Nông và tỉnh Kon Tum là hai tỉnh có kinh tế – xã hội, cơ sở hạ tầng kém phát triển, vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên không thuận lợi, năm 2019 có thứ hạng gần cuối trong cả nước nhưng lại có sự cải thiện thứ hạng chỉ số PCI qua các năm, đặc biệt Đắk Nông năm 2023 đã ở vị trí rất cao. Trong khi đó, các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Lắk và Gia Lai, mặc dù có các lợi thế cạnh tranh hơn hai tỉnh Đắk Nông và Kon Tum nhưng lại chậm cải thiện thứ hạng và giảm mạnh vào những năm gần đây. So sánh các chỉ số thành phần của PCI góp phần vào sự cải thiện chỉ số PCI các tỉnh cho ta thấy:

Thứ hạng chỉ số PCI từ năm 2019 – 2022 của Đắk Nông tăng 24 bậc (từ 62 lên 38) và năm 2023 tăng so với 2022 là 17 bậc (từ 38 lên 21), trong khi đó, tỉnh Kon Tum từ năm 2019 – 2022 tăng 30 bậc (từ 65 lên 26) và năm 2023 giảm so với 2022 là 21 bậc (từ 26 xuống 47). Các chỉ số thành phần giúp cho chỉ số PCI của tỉnh Đắk Nông và tỉnh Gia Lai tăng giống nhau, cụ thể ở bảng sau:

Qua bảng 2 cho thấy, các chỉ số thành phần giúp cho tỉnh Đắk Nông cũng như tỉnh Kon Tum thăng hạng về chỉ số PCI tập trung ở 5 chỉ số thành phần liên quan đến cải cách thủ tục hành chính để giảm các chi phí, các chính sách hỗ trợ và môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp khi đầu tư.

Với tỉnh Lâm Đồng, trong 4 năm (từ năm 2019 – 2022), giữ thứ hạng PCI rất cao (lần lượt là 22, 23, 15, 17), nhưng đến năm 2023 là 56, giảm 37 bậc. Cùng với đó, tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Gia Lai từ năm 2019 – 2021 đều giữ ở thứ hạng trung bình, đến năm 2022 và 2023 ở mức rất thấp. Các chỉ số thành phần làm giảm thứ hạng PCI của 3 tỉnh như sau:

Qua bảng 3 cho thấy, các chỉ số thành phần làm giảm hạng PCI của 3 tỉnh Lâm Đồng, Đắk Lắk và Gia Lai tập trung ở 6 chỉ số thành phần cũng liên quan đến cải cách thủ tục hành chính để giảm các chi phí, chính sách hỗ trợ về đất đai, đào tạo lao động và môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp khi đầu tư ở địa phương.

Từ những phân tích trên, có thể rút ra nhận xét, những địa phương ở khu vực Tây Nguyên có những điều kiện không thuận lợi kinh tế – xã hội, về quy mô thị trường, cơ sở hạ tầng, vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên vẫn có thể cải thiện môi trường kinh doanh để thu hút các nhà đầu tư thông qua các nỗ lực về cải cách hành chính, chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp cũng như sự năng động và khả năng điều hành kinh tế của lãnh đạo địa phương.

Có thể chỉ ra một số hạn chế, nguyên nhân trong cải thiện chỉ số PCI ở khu vực Tây Nguyên như sau:

Thứ nhất, các tỉnh Tây Nguyên đã nỗ lực cải cách thể chế, đặc biệt là cải cách về thủ tục hành chính, giảm thiểu các chi phí không chính thức, tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp. Tuy nhiên, tốc độ cải cách còn chậm, quy trình thủ tục đăng ký kinh doanh và tiếp cận đất đai còn phức tạp, tính minh bạch còn thấp. 

Thứ hai, cộng đồng doanh nghiệp chưa đánh giá cao môi trường đầu tư ở khu vực Tây Nguyên liên quan đến các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp; công tác tư vấn, hỗ trợ về thực hiện thủ tục hành chính trong khởi nghiệp kinh doanh, đổi mới sáng tạo và đầu tư; việc gặp gỡ, đối thoại, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp chưa thường xuyên và hiệu quả. Các doanh nghiệp chưa cảm nhận được tiềm năng đầu tư phát triển trong ngắn hạn. 

Thứ ba, chuyển đổi số, tiếp cận thông tin còn hạn chế, nhất là trong công tác đào tạo nhân lực và quản trị; việc xây dựng cơ sở dữ liệu kết nối, chia sẻ trên cổng thông tin còn cắt khúc, chưa được đẩy mạnh. Việc chuyển đổi xanh, logictis còn kém.

Thứ tư, mặc dù sở hữu tài nguyên phong phú, đa dạng về khoáng sản; khí hậu, thổ nhưỡng, cảnh quan và hệ động thực vật phong phú thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp và du lịch sinh thái nghỉ dưỡng, tuy nhiên, so với mặt bằng chung cả nước thì kết quả thu hút đầu tư vào Tây Nguyên còn khá khiêm tốn chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Toàn vùng hiện mới có khoảng 150 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 944 triệu USD, chiếm 0,002% tổng vốn đăng ký của cả nước; nhà đầu tư chủ yếu vào các lĩnh vực năng lượng, khai khoáng, sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, thương mại, dịch vụ, quy mô các dự án vừa và nhỏ là chủ yếu, tổng mức đầu tư thấp7.

Các doanh nghiệp đầu tư ở các tỉnh Tây Nguyên chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ đơn giản, sử dụng ít lao động và chủ yếu tập trung ở khu vực đô thị. Các dự án đầu tư vào các khu kinh tế, khu công nghiệp, các dịch vụ, du lịch tạo ra giá trị gia tăng lớn còn rất ít. Tài nguyên, khoáng sản được khai thác bừa bãi, gây lãng phí lớn, nhất là tài nguyên rừng bị khai thác và chặt phá trái phép diễn ra khá trầm trọng.

Thứ năm, chưa làm tốt việc đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại trên môi trường số, giúp cho các doanh nghiệp, các hợp tác xã quảng bá, xây dựng hình ảnh và phát triển thương hiệu sản phẩm, hỗ trợ mở rộng thị trường. Đồng thời, cũng chưa mở được nhiều khóa tập huấn kỹ năng kinh doanh trên nền tảng số phát triển thương hiệu, xây dựng hình ảnh cho doanh nghiệp, hợp tác xã. Chiến lược xúc tiến đầu tư của khu vực và từng tỉnh chưa rõ ràng; cơ chế thu hút đầu tư còn mang tính tự phát, thiếu định hướng về quy hoạch phát triển chung và liên kết vùng. 

Thứ sáu, các tỉnh khu vực Tây Nguyên mặc dù đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư hệ thống hạ tầng giao thông, nhưng vẫn còn yếu kém so với nhiều vùng khác trong cả nước. Đặc biệt, hệ thống logistisc của vùng còn nhiều hạn chế, toàn vùng hiện chỉ có duy nhất Quốc lộ 14 kết nối các tỉnh trong vùng với một số vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và Duyên hải miền Trung. Kết nối Tây Nguyên với các tỉnh miền Trung hiện dựa vào những tuyến quốc lộ đã có từ lâu, xuống cấp, quá tải khiến việc lưu thông hàng hóa, vận tải trở nên khó khăn; trong đó liên thông vùng, kết nối liên quốc gia, cửa khẩu, cảng biển chưa được khai thông. Đây cũng được coi là điểm nghẽn trong thu hút các nhà đầu tư. Ngoài ra, các dịch vụ cung cấp điện nước còn hạn chế8.

Thứ bảy, nguồn nhân lực, kỹ năng lao động thấp. Hệ thống trường đại học, cao đẳng, trung cấp nghề phát triển chưa đồng bộ dẫn đến nguồn lao động được đào tạo còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng của các nhà đầu tư.

4. Những vấn đề đặt ra trong việc cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh ở khu vực Tây Nguyên

Một là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, trong đó đặc biệt chú trọng đẩy mạnh chuyển đổi số, số hóa và tự động hóa toàn bộ quy trình hành chính, cho phép công dân thực hiện các dịch vụ công qua nền tảng trực tuyến; hỗ trợ tốt cho doanh nghiệp trước tiền đầu tư, tiền đăng ký kinh doanh, đầu tư; đẩy mạnh dịch vụ công trực tuyến ở cấp độ 3, 4. Đẩy mạnh việc sắp xếp tinh gọn bộ máy theo Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII), bảo đảm bộ máy chính quyền địa phương tinh, gọn, mạnh, hiệu lực, hiệu quả, hiệu năng.

Hai là, tập trung vào việc cải thiện mạnh mẽ về cơ sở hạ tầng giao thông và logistics, hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông; phát triển hệ thống giao thông kết nối các khu vực sản xuất với thị trường tiêu thụ, đặc biệt là các đường cao tốc để rút ngắn thời gian và chi phí vận chuyển; phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất với đầy đủ các tiện ích đáng tin cậy; hoàn thiện và nâng cấp hệ thống cung cấp điện, nước để thu hút đầu tư, bao hàm cả việc phát triển và khai thác các dự án năng lượng tái tạo, như: điện gió, điện mặt trời bảo đảm việc cung cấp đầy đủ, ổn định lâu dài.

Ba là, phát triển mạnh công tác truyền thông để các doanh nghiệp cảm nhận tốt về môi trường đầu tư; thường xuyên thông tin, hỗ trợ doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp cận và hưởng các chính sách, nội dung hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số, chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp công nghệ số; rà soát danh sách các đơn vị kinh doanh nền tảng số, cung cấp dịch vụ tư vấn giải pháp chuyển đổi số trong doanh nghiệp và công khai thông tin để doanh nghiệp biết và tiếp cận. 

Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, khuyến khích doanh nghiệp tiếp cận và áp dụng các mô hình chuyển đổi xanh, kinh doanh bền vững; đồng thời, với việc nâng cao tính năng động, tiên phong của chính quyền địa phương trong việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, hỗ trợ doanh nghiệp; bảo đảm tính ổn định, nhất quán của việc xây dựng thực thi chính sách, pháp luật là tăng cường truyền thông, gửi thông điệp tới cộng đồng doanh nghiệp nhằm cải thiện mạnh mẽ sự đánh giá, cảm nhận của doanh nghiệp về tính năng động và tiên phong của chính quyền địa phương. Cùng với đó, lãnh đạo chính quyền địa phương các tỉnh cần quan tâm hơn nữa việc tạo ra sự hài lòng cho doanh nghiệp thông qua việc tăng cường tiếp xúc, đối thoại với doanh nghiệp để nắm bắt như cầu, cảm nhận được tiếng nói của các doanh nghiệp về môi trường đầu tư.

Bốn là, dỡ bỏ các rào cản về pháp lý: chính quyền địa phương các tỉnh Tây Nguyên phải lắng nghe tiếng nói của doanh nghiệp về những khó khăn, vướng mắc, những điểm nghẽn về vấn đề pháp lý liên quan hoạt động sản xuất – kinh doanh để khẳng định cam kết luôn đồng hành, chia sẻ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp. 

Trong bối cảnh hiện nay, thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả và hiệu năng, thì chính quyền địa phương ở các khu vực Tây Nguyên phải đổi mới tư duy triển khai công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật theo hướng thể chế nhằm khuyến khích đổi mới sáng tạo, khơi thông mọi nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp phát triển; địa phương sẵn sàng đồng hành, theo sát và cùng cộng đồng doanh nghiệp tháo gỡ đến cùng các khó khăn mà cộng đồng doanh nghiệp gặp phải, góp phần tạo dựng môi trường đầu tư, sản xuất – kinh doanh thông thoáng, thuận lợi một cách thực chất. 

Năm là, chú trọng phát triển nguồn nhân lực: Để cải thiện môi trường đầu tư, các tỉnh Tây Nguyên cần tăng cường đầu tư vào vốn nhân lực, đặc biệt là đào tạo nghề chất lượng cao cho các ngành sản xuất chính, như: nông nghiệp, du lịch, chế biến và xuất khẩu nông sản, công nghệ thông tin, chú trọng đến đối tượng là dân tộc thiểu số và dân cư nông thôn. Tăng cường sự hợp tác đào tạo nhân lực giữa các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo trên địa bàn. Cùng với đó là chú trọng đến đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và chính sách thu hút trọng dụng nhân tài cũng như chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực; tăng cường hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, làm tốt công tác dự báo, kết nối cung – cầu lao động giữa các địa phương trong nước và quốc tế.

6. Kết luận

Nghiên cứu đã chỉ được 4 yếu tố ảnh hưởng mang tính đặc trưng ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư ở khu vực Tây Nguyên, từ đó, chỉ ra được các vấn đề đặt ra với các tỉnh khu vực Tây Nguyên trong việc cải thiện môi trường kinh doanh là: tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính; tập trung vào việc cải thiện mạnh mẽ về cơ sở hạ tầng giao thông và logistics, hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông; phát triển mạnh công tác truyền thông để các doanh nghiệp cảm nhận tốt về môi trường đầu tư; dỡ bỏ các rào cản về pháp lý; chú trọng phát triển nguồn nhân lực. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, chìa khoá trong cải thiện chỉ số PCI các tỉnh khu vực Tây Nguyên nằm ở chính chất lượng điều hành kinh tế của chính quyền cấp tỉnh và môi trường kinh doanh có thuận lợi hay không cho việc phát triển doanh nghiệp.

Chú thích: 
1. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và chỉ số xanh cấp tỉnh (PCI 2023 – PGI 2023).https://nvsk.vnanet.vn/ho-so/chi-so-nang-luc-canh-tranh-cap-tinh-va-chi-so-xanh-cap-tinh-pci-2023-va-pgi-2023-3-146013.vna
2. Thiết lập mô hình ảnh hưởng của chỉ số thành phần PCI tới dự định đầu tư của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. https://kinhtevadubao.vn/thiet-lap-mo-hinh-anh-huong-cua-chi-so-thanh-phan-pci-toi-du-dinh-dau-tu-cua-doanh-nghiep-tren-dia-ban-tinh-ninh-binh-29044.html
3. Huỳnh Thị Thúy Giang (2021). Mối quan hệ giữa chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các địa phương Việt Nam. Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng, số 228.
4. Đặng Thị Thu Vân và cộng sự (2024). Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của nhà đầu tư trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Tạp chí Khoa học Tây Nguyên, số 18.
5. Đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông để phát triển vùng Tây Nguyên. https://laodong.vn/dttg/tot-doi-dep-dao/dau-tu-co-so-ha-tang-giao-thong-de-phat-trien-vung-tay-nguyen-1243985.html
6. Tháo gỡ khó khăn, cải thiện môi trường đầu tư cho Tây Nguyên. https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/thao-go-kho-khan-cai-thien-moi-truong-dau-tu-cho-tay-nguyen-748808
7. Sớm đưa Tây Nguyên ra khỏi “vùng trũng” trong phát triển thương mại. https://daibieunhandan.vn/som-dua-tay-nguyen-ra-khoi-vung-trung-trong-phat-trien-thuong-mai-post369192.html