ThS. Vũ Đức Văn
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Trải qua hơn 30 năm tái thành lập tỉnh, từ một tỉnh kinh tế thuần nông, quy mô nhỏ và tốc độ tăng trưởng chậm, Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Ninh Bình đã phát huy truyền thống đoàn kết, quyết tâm, đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, nỗ lực phấn đấu và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tỉnh Ninh Bình đã phát huy những tiềm năng, lợi thế, tập trung triển khai những đột phá chiến lược và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, trong đó có nhiều chủ trương, chính sách nhằm đẩy mạnh xây dựng và phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao làm cơ sở thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nhanh, bền vững, tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh.
Từ khóa: Nguồn nhân lực; phát triển; kinh tế – xã hội; tỉnh Ninh Bình; xây dựng.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh phát triển kinh tế – xã hội hiện nay, Ninh Bình đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn. Là tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng, Ninh Bình cần khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành yếu tố then chốt.
Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ, quá trình hội nhập quốc tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi nguồn nhân lực không chỉ đáp ứng yêu cầu chuyên môn mà còn phải có kỹ năng mềm, tư duy sáng tạo và khả năng thích nghi nhanh chóng. Thực tế cho thấy, nguồn nhân lực tại Ninh Bình vẫn còn nhiều hạn chế về chất lượng, chưa đồng đều giữa các lĩnh vực và khu vực. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục và đào tạo và chính sách thu hút nhân tài.
2. Thực trạng quản lý nhà nước trong xây dựng nguồn nhân lực ở tỉnh Ninh Bình hiện nay
Tỉnh Ninh Bình xác định phát triển nguồn nhân lực là yếu tố then chốt để thúc đẩy kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế. Để hiện thực hóa mục tiêu này, tỉnh đã ban hành và triển khai nhiều nghị quyết quan trọng, trong đó nổi bật là Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 28/12/2016 về phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Nghị quyết số 06-NQ/TU đề ra mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bảo đảm đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Để thực hiện Nghị quyết, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 23/KH-UBND ngày 14/3/2017, tập trung vào các nhiệm vụ chính: (1) Xây dựng hệ thống dự báo nhu cầu nhân lực: thiết lập cơ sở dữ liệu về nhu cầu nhân lực theo ngành, lĩnh vực để định hướng đào tạo và sắp xếp lao động phù hợp với xu hướng phát triển của tỉnh. (2) Hoàn thiện chính sách thu hút và phát triển nhân tài: điều chỉnh các chính sách nhằm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt trong các lĩnh vực ưu tiên phát triển của tỉnh. (3) Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nghề: tập trung cải thiện cơ sở vật chất, đổi mới phương pháp giảng dạy, bảo đảm chất lượng giáo dục phổ thông và đào tạo nghề, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
Nhận thức được tầm quan trọng của ngành Du lịch, Tỉnh ủy Ninh Bình đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 29/10/2021 về phát triển du lịch đến năm 2030. Một trong những nội dung trọng tâm của Nghị quyết số 07-NQ/TU là chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu của ngành Du lịch. Điều này bao gồm việc xây dựng các chương trình đào tạo chuyên sâu, hợp tác với các cơ sở giáo dục và tổ chức quốc tế để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ và khả năng ngoại ngữ cho lao động ngành Du lịch. Đồng thời, tỉnh cũng đặt mục tiêu tạo môi trường làm việc chuyên nghiệp, hấp dẫn để thu hút và giữ chân nhân tài. Đây là yếu tố then chốt để phát huy tiềm năng du lịch của Ninh Bình, nâng cao chất lượng dịch vụ và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Ngày 27/10/2022, Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Ninh Bình ban hành Nghị quyết số 56/2022/NQ-HĐND quy định cơ chế huy động nguồn lực và lồng ghép nguồn vốn giữa các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình, dự án khác trên địa bàn tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2021- 2025 nhằm tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực cho phát triển, bao gồm cả phát triển nguồn nhân lực. Với việc ban hành và triển khai đồng bộ các nghị quyết, chỉ thị và kế hoạch hành động, tỉnh Ninh Bình đã và đang từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn mới. Sự chú trọng đến giáo dục và đào tạo nghề và thu hút nhân tài là nền tảng vững chắc để tỉnh tiếp tục phát triển bền vững trong tương lai.
Qua 5 năm quyết liệt triển khai thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU, công tác phát triển nguồn nhân lực, nhiệm vụ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đã được lồng ghép thực hiện có hiệu quả. Cơ cấu nguồn nhân lực có sự chuyển dịch tích cực theo ngành, lĩnh vực có thế mạnh của địa phương, chẳng hạn như: lao động trong khối ngành nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 41,58% (năm 2016), xuống còn 10,2% (năm 2023); công nghiệp – xây dựng từ 31,03% (năm 2016) tăng lên 42,7% (năm 2023); thương mại, dịch vụ từ 27,39% (năm 2016) tăng lên 47,1% (năm 2023)1.
Công tác cán bộ đã bám sát các quan điểm, nguyên tắc của Đảng, ngày càng đi vào nề nếp. Đào tạo nghề cho lao động trực tiếp được quan tâm, tay nghề, đạo đức và văn hóa người lao động được nâng lên, có khả năng tiếp cận khoa học – công nghệ góp phần tăng năng suất lao động. Vì vậy, tỷ lệ thất nghiệp liên tục giảm và là một trong số ít tỉnh có tỷ lệ thất nghiệp thấp so với tỷ lệ chung của cả nước (cả nước là 2,52%, Ninh Bình là 1,37%). Năm 2020, thu nhập bình quân của người lao động đạt 64,91 triệu đồng/năm, tăng 54% so với năm 20152.
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân được chú trọng, chất lượng cuộc sống của người dân ngày một nâng cao. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục và dạy nghề tiếp tục được quan tâm đầu tư, nâng cấp theo hướng hiện đại. Năm 2020, tuổi thọ bình quân của tỉnh Ninh Bình đạt 74,2 tuổi cao hơn so với bình quân cả nước 73,7 tuổi. Từ những kết quả quan trọng đạt được cho thấy, nguồn nhân lực của tỉnh cơ bản duy trì được tốc độ phát triển hợp lý về mặt số lượng và chất lượng, từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU còn một số tồn tại, như: thiếu chuyên gia, cán bộ quản lý doanh nghiệp, quản lý công nghệ giỏi; thiếu kỹ sư, công nhân kỹ thuật lành nghề để đáp ứng yêu cầu sản xuất, thu hút đầu tư. Phát triển đội ngũ nhân lực, đặc biệt nhân lực khoa học – công nghệ có trình độ kỹ thuật, kỹ năng cao làm chủ được khoa học – công nghệ tiên tiến tại các doanh nghiệp còn yếu. Đào tạo nghề chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, mới chỉ tập trung đào tạo đại trà, ngắn hạn chưa đủ điều kiện đào tạo lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật cao; cơ cấu ngành, nghề đào tạo lao động còn thiếu so với yêu cầu của nền kinh tế và của thị trường lao động. Công tác dự báo nguồn nhân lực chưa kịp thời, thiếu chính xác; công tác định hướng nghề nghiệp, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực còn nhiều bất cập. Xã hội hóa đầu tư phát triển cho lĩnh vực giáo dục dạy nghề và y tế chưa cao. Một số chỉ tiêu phát triển nguồn nhân lực tỉnh Ninh Bình chưa đạt mục tiêu đề ra và không còn phù hợp với tình hình thực tiễn, như: mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 95%. Tuy nhiên, theo kết quả đạt được đến hết năm 2020, tỷ lệ trên đạt 65% thấp hơn mức đề ra trong Nghị quyết 06 là 30%; chính sách thu hút, tuyển dụng nguồn nhân lực còn nhiều bất cập3.
Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế là do sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội với doanh nghiệp trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực của tỉnh còn chưa chặt chẽ; hệ thống thông tin dữ liệu lao động, việc làm chưa đầy đủ, công tác định hướng, quy hoạch và phân luồng đào tạo còn nhiều bất cập; đào tạo chưa gắn với nhu cầu xã hội.
3. Một số giải pháp
Để tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh, ngày 21/10/2021, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Kết luận số 92-KL/TU với mục tiêu: “Xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số, chính phủ điện tử phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng ưu tiên phát triển dịch vụ và công nghiệp, ưu tiên phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt. Tăng cơ hội việc làm và thu nhập cao cho người lao động, đưa nhân lực trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng để phát triển bền vững kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng tỉnh Ninh Bình phát triển theo hướng đô thị thông minh, văn minh và hiện đại”4. Để đạt được các mục tiêu trên Tỉnh ủy đã xác định cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, các cấp ủy đảng tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết, tuyên truyền về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Trong đó cần tập trung “tổ chức tuyên truyền và định hướng nghề nghiệp đối với người dân, chú trọng đối tượng học sinh, sinh viên; khẳng định đào tạo để có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động là cơ hội để phát triển bản thân, tăng khả năng có việc làm, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống” 5. Đồng thời, khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức và người lao động nâng cao ý thức học và tự học, học tập suốt đời, phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng tốt hơn công việc được giao; tăng cường tính kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm trong mọi hoạt động lao động, sản xuất.
Hai là, thường xuyên rà soát, đánh giá chất lượng nhân lực; nâng cao năng lực hệ thống dự báo nguồn nhân lực và thông tin thị trường lao động gắn với đẩy mạnh giải quyết việc làm. Tập trung “xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, các công cụ phát triển nhân lực về phát triển thị trường lao động, chính sách lao động – việc làm, bảo hiểm, chính sách xã hội, nhà ở” 6.
Xây dựng, ban hành chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao (các chuyên gia, cán bộ khoa học kỹ thuật có chuyên môn cao) đến làm việc tại tỉnh phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương. “Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dự nguồn, lãnh đạo quản lý, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiếu số; nhất là cán bộ trẻ, bảo đảm yêu cầu, tiêu chuẩn chức danh quy định trước khi bố trí, đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử và bảo đảm tính kế thừa, phát triển của đội ngũ cán bộ”7.
Ba là, tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. “Rà soát, sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo và dạy nghề phù hợp với điều kiện phát triển và quy hoạch của địa phương. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu dạy và học, hiện đại hóa, nâng cao chất lượng các hoạt động giáo dục mũi nhọn và chất lượng dạy nghề tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp nghề trên địa bàn tỉnh. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo, xây dựng hệ thống trường chất lượng cao ở các bậc học. Chú trọng công tác hướng nghiệp, phân luồng, liên thông trong giáo dục, đào tạo gắn với nhu cầu xã hội”8.
Đồng thời, đa dạng hóa các hình thức học tập, ứng dụng hiệu quả công nghệ số, từng bước hoàn thiện tài nguyên số phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu. Đổi mới nội dung, hình thức dạy nghề cho lao động nông thôn trong đó “đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cần tập trung theo hướng các ngành nghề mà tỉnh thu hút đầu tư, đáp ứng nhu cầu lao động cho các dự án đang triển khai trên địa bàn tỉnh, góp phần giải quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, xây dựng nông thôn mới”9.
Bốn là, tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân theo tinh thần Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011 – 2030 theo Quyết định số 641/QĐ-TTg ngày 28/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ. “Tập trung củng cố hệ thống y tế từ tỉnh đến cơ sở, bảo đảm mọi người dân có thể tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng. Thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu y tế, nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh; thực hiện tốt công tác phòng, chống suy dinh dưỡng, đuối nước ở trẻ em; quan tâm chăm sóc sức khỏe học đường cho học sinh, bảo đảm có sức khỏe tốt khi trưởng thành, nâng cao tuổi thọ”; “Xây dựng mô hình bác sĩ gia đình, đội ngũ cán bộ, viên chức y tế tuyến cơ sở có đủ năng lực chuyên môn thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu, nhất là tại các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc”10.
Tập trung xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, “phát triển thể dục, thể thao toàn dân để tăng cường sức khỏe của Nhân dân, đồng thời làm cơ sở phát triển thể dục, thể thao thành tích cao. Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống thiết chế văn hóa nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho Nhân dân”11.
Năm là, tập trung cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; từng bước đổi mới và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển các ngành, lĩnh vực có hiệu quả kinh tế cao gắn với bảo vệ môi trường, trong đó “ưu tiên những ngành nghề, lĩnh vực như: công nghiệp điện tử; công nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô, công nghiệp phụ trợ; vật liệu mới; công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ sản xuất nông nghiệp và dịch vụ du lịch…”12. Đồng thời, quan tâm mở rộng hợp tác kinh tế, tạo chuỗi liên kết ngành, vùng và quốc tế. Phát triển các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh “xây dựng và triển khai các cơ chế, chính sách phù hợp tạo điều kiện để khơi thông các nguồn lực cho phát triển; quan tâm, tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế quy mô lớn, có tiềm lực mạnh hoạt động, hiệu quả và tăng sức cạnh tranh”13.
Sáu là, đẩy mạnh huy động các nguồn lực xã hội hóa đầu tư trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục và đào tạo, giáo dục nghề nghiệp thông qua các chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ về đất đai và tín dụng, tranh thủ tối đa các nguồn vốn đầu tư phát triển nguồn nhân lực; lồng ghép mục tiêu phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các chương trình, dự án. Trong đó, “tập trung cân đối, bố trí ngân sách nhà nước hợp lý phát triền nguồn nhân lực” 14. Tăng cường phối hợp, liên kết với các cơ sở đào tạo có uy tín trong nước và nước ngoài để nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo; mở rộng quan hệ giao lưu, trao đổi, hợp tác về đào tạo, chuyển giao ứng dụng khoa học – công nghệ, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, sử dụng nhân lực.
4. Kết luận
Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao là nhiệm vụ chiến lược để tỉnh Ninh Bình thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn hiện nay. Với tiềm năng và lợi thế sẵn có, tỉnh cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nghề và phát triển kỹ năng cho người lao động, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế và hội nhập quốc tế. Đồng thời, ban hành các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, gắn kết giữa cơ sở đào tạo và thị trường lao động, bảo đảm hài hòa giữa số lượng và chất lượng nhân lực giúp tỉnh xây dựng đội ngũ lao động đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững. Việc phát triển nguồn nhân lực không chỉ là yếu tố then chốt mà còn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy Ninh Bình tiến xa hơn trên hành trình phát triển toàn diện.
Chú thích:
1, 2, 3. Tỉnh ủy Ninh Bình (2016). Báo cáo số 110-BC/TU sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 28/12/2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển nguồn nhân lực tỉnh Ninh Bình đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14. Tỉnh ủy Ninh Bình (2016). Kết luận số 92-KL/TU về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 28/12/2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển nguồn nhân lực tỉnh Ninh Bình đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Tỉnh ủy Ninh Bình (2020). Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XXII.