ThS. Nguyễn Mạnh Cường
Tổng Công ty Thép Việt Nam
(Quanlynhanuoc.vn) – Ngày 03/02/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09/NQ-CP thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (viết tắt là CMSC). Trong 5 năm hoạt động, CMSC đã cơ bản thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại 19 tập đoàn, tổng công ty do CMSC làm đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước. Bài viết đánh giá hoạt động của CMSC từ thời điểm thành lập năm 2018 đến nay, từ đó, đưa một số phương hướng, giải pháp quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước nói chung và 19 tập đoàn, tổng công ty trong thời gian tới.
Từ khóa: Ủy ban Quản lý vốn nhà nước, doanh nghiệp, chủ sở hữu vốn nhà nước, tập đoàn, tổng công ty, quản lý nhà nước.
1. Đặt vấn đề
Ngày 03/02/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09/NQ-CP thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp – CMSC và Nghị định số 131/2018/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của CMSC. CMSC thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước chuyên trách, tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý hành chính nhà nước nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, chất lượng quản trị doanh nghiệp nhà nước góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong 5 năm hoạt động, CMSC đã cơ bản thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại 19 tập đoàn, tổng công ty do CMSC làm đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước. Kết quả kinh doanh tại các doanh nghiệp do CMSC quản lý tăng trưởng tốt, tổng giá trị vốn nhà nước được bảo toàn và phát triển. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động của CMSC vẫn còn có một số vấn đề hạn chế khiến cho mô hình CMSC hoạt động còn mang tính chất hành chính, không đạt được mục tiêu và kỳ vọng khi thành lập. Theo đó, Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về sắp xếp, tinh gọn bộ máy đã đưa ra chủ trương kết thúc hoạt động và chuyển chức năng, nhiệm vụ của CMSC về Bộ Tài chính, các bộ chuyên ngành và các cơ quan liên quan (Tuân Nguyễn, 2024).
2. Một số kết quả hoạt động
Theo Nghị định số 10/2019/NĐ-CP ngày 30/01/2019 của Chính phủ về thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước, Việt Nam hiện nay có ba cơ quan đại diện chủ sở hữu, là: CMSC; bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tổng Công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC). Trong đó, SCIC là một trong 19 tập đoàn, tổng công ty trực thuộc CMSC được kỳ vọng là công cụ để CMSC đầu tư và kinh doanh vốn. SCIC theo đó thực hiện tiếp nhận và thoái vốn tại các doanh nghiệp thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cung cấp vốn mồi cho các dự án và 18 tập đoàn, tổng công ty. Trong khi đó, CMSC được thành lập nhằm thực hiện mục tiêu tách bạch chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước và chức năng quản lý nhà nước (Duyên Duyên, 2018).
Việc thành lập và đi vào hoạt động của CMSC đã cơ bản thực hiện được chủ trương trên đối với 19 tập đoàn, tổng công ty “sếu đầu đàn” trong khối doanh nghiệp nhà nước. Các bộ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thể tập trung vào thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước. Các tập đoàn, tổng công ty được quản trị theo các thông lệ quản trị tốt, có môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Với tư cách một cơ quan thuộc Chính phủ, CMSC cơ bản đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Điều 3 Nghị định số 10/2016/NĐ-CP và Điều 6 Nghị định số 131/2018/NĐ-CP, bao gồm: đề xuất Chính phủ việc thành lập mới, tổ chức lại, giải thể các tổ chức, đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của CMSC; thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, nghỉ hưu, khen thưởng, kỷ luật và các chế độ khác đối với công chức, viên chức, người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp do CMSC làm đại diện chủ sở hữu; lập dự toán ngân sách nhà nước hằng năm; kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước trung hạn; quyết định các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền đầu tư của CMSC và thực hiện các nhiệm vụ do Thủ tướng Chính phủ giao….
Căn cứ theo các quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Nghị định số 10/2019/NĐ-CP, Nghị định số 131/2018/NĐ-CP có thể thấy, CMSC có các nhiệm vụ, quyền hạn với tư cách một cơ quan đại diện chủ sở hữu, như: đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành, sửa đổi, bổ sung điều lệ của doanh nghiệp nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập; tham mưu giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện các quyền, trách nhiệm đối với doanh nghiệp do CMSC làm đại diện chủ sở hữu; giám sát, kiểm tra, thanh tra việc quản lý, sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển, việc tuyển dụng lao động, thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng của doanh nghiệp…
Trong mối quan hệ giữa CMSC với các cơ quan quản lý nhà nước, CMSC chỉ thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, còn các bộ quản lý ngành thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực chuyên môn đối với các doanh nghiệp. Theo đó, chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước và quản lý nhà nước đã được tách biệt.
Các báo cáo tài chính công ty mẹ của 19 tập đoàn, tổng công ty giai đoạn 2018- 2023 cho thấy, 19 tập đoàn, tổng công ty trong giai đoạn sau khi được chuyển giao về CMSC đã hoàn thành được kế hoạch sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển. Tổng giá trị vốn nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty này được bảo toàn và phát triển.
Tại Báo cáo 5 năm hoạt động của CMSC (2023) cho thấy, tổng số vốn và tài sản công ty mẹ của 19 tập đoàn, tổng công ty được CMSC tiếp nhận lần lượt là 922.819 tỷ đồng và 1.646.311 tỷ đồng. Đến hết năm 2023, tổng số vốn và tài sản này đã tăng lên lần lượt là 940.000 tỷ đồng và 1.616.000 tỷ đồng, doanh thu công ty mẹ của 19 tập đoàn, tổng công ty cũng có sự tăng trưởng ấn tượng từ 823.716 tỷ đồng lên 1.136.000 tỷ đồng.
Trong Báo cáo tổng kết công tác năm 2024, phương hướng, nhiệm vụ năm 2025 của CMSC tại doanh nghiệp và 19 tập đoàn, tổng công ty đã nêu rõ kết quả sản xuất, kinh doanh đáng ghi nhận của 19 tập đoàn, tổng công ty năm 2024, doanh thu hợp nhất của 19 tập đoàn, tổng công ty ước đạt 2.030.572 tỷ đồng, bằng 120% kế hoạch năm; lợi nhuận trước thuế ước đạt 111.692 tỷ đồng, bằng 158% kế hoạch năm; giá trị nộp ngân sách nhà nước ước đạt 206.206 tỷ đồng, bằng 153% kế hoạch năm. Bên cạnh đó, 19 tập đoàn, tổng công ty trong thời gian qua đã luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị – kinh tế – xã hội được giao, đóng góp tích cực vào hiệu quả phát triển và tính cạnh tranh của quốc gia, bảo đảm an ninh, quốc phòng và nguồn cung các sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho xã hội, tạo động lực cho các ngành, lĩnh vực, khu vực kinh tế khác trong nền kinh tế phát triển thông các hoạt động cụ thể, như: bảo đảm cung ứng xăng dầu trong biến động của thị trường (cung ứng 13,76 triệu m3 xăng dầu, 10,84 triệu tấn dầu thô, chiếm 50% thị phần xăng dầu bán lẻ cả nước); bảo đảm an ninh, cung ứng năng lượng bao gồm điện cho sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh (cung ứng 242,7 tỷ kWh điện, chiếm khoảng 48% điện năng cả nước), khai thác khí (cung ứng 8,08 tỷ m3 khí, chiếm 100% khí khô, 70% khí hóa lỏng cả nước), than đá (cung ứng 42,2 triệu tấn than sạch); cung ứng sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp cho nền kinh tế bao gồm: hóa chất cơ bản (cung ứng 842 nghìn tấn hóa chất cơ bản), phân bón (cung ứng 4,8 triệu tấn phân bón, chiếm 70% phân bón cả nước), cây giống (cung ứng 41,6 triệu cây giống)…
Để 19 tập đoàn, tổng công ty có những kết quả đáng ghi nhận như trên đòi hỏi sự nỗ lực của CMSC trong việc thực hiện nghiêm túc quyền và nghĩa vụ của cổ đông Nhà nước trong định hướng doanh nghiệp hoạt động. Mặt khác, một trong những vai trò quan trọng khác của CMSC thời gian qua là làm cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo xử lý các dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả ngành Công thương. Đến nay, một số dự án, doanh nghiệp đã có nhiều chuyển biến trong sản xuất, kinh doanh. Việc một số dự án, doanh nghiệp đi vào hoạt động ổn định hơn trước, kinh doanh có lãi, giảm lỗ lũy kế và một số dự án, doanh nghiệp vận hành trở lại sau thời gian dừng sản xuất đã đóng góp cho ngân sách nhà nước, giảm dư nợ trung hạn và dài hạn của các dự án/doanh nghiệp, bảo đảm duy trì việc làm, đời sống cho hàng nghìn lao động góp phần ổn định chính trị – xã hội tại địa phương.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình hoạt động của mô hình CMSC vẫn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, như: hoạt động phê duyệt chiến lược phát triển doanh nghiệp mới thực hiện ở mức độ doanh nghiệp và còn chậm do 19 tập đoàn, tổng công ty có quy mô lớn, nội dung chiến lược phát triển doanh nghiệp rất rộng và phức tạp, liên quan đến một số quy hoạch ngành, do đó phát sinh thêm thời gian khi phải xin ý kiến các bộ, cơ quan liên quan để triển khai.
Một số quy định pháp luật trong việc thực hiện thẩm quyền của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước và trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn bất cập, chưa rõ ràng, đồng bộ, thống nhất, chậm được sửa đổi, bổ sung (như: chưa rõ khái niệm vốn nhà nước, vốn của doanh nghiệp, vốn đầu tư của chủ sở hữu nhà nước để xác định được giới hạn thực hiện vai trò quản lý nhà nước; xác định các nội dung phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, Kiểm toán nhà nước, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; lúng túng trong việc xác định là tài sản kết cấu hạ tầng quốc gia và tài sản của doanh nghiệp…) gây lúng túng trong hoạt động của CMSC và các doanh nghiệp.
Việc triển khai hoạt động đầu tư còn chậm do các quy định pháp luật chưa đồng bộ; chưa đẩy mạnh phân công, phân cấp gắn với trách nhiệm của người đứng đầu. Quá trình thực hiện dự án đầu tư phải tham chiếu quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật có một số nội dung chưa đồng nhất hoặc tăng thêm các bước thủ tục, làm cho quá trình đầu tư kéo dài. Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thực hiện chưa được sửa đổi kịp thời theo thực tiễn, chưa tạo sự chủ động cho doanh nghiệp đưa ra những quyết định nhanh, kịp thời. Một số doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc huy động vốn dẫn đến chậm tiến độ trong thực hiện dự án (đặc biệt là các dự án nguồn điện, các dự án phát triển dầu khí, các dự án quy mô lớn); trong khi đó, còn doanh nghiệp có vốn tài sản nhàn rỗi nhưng chưa có cơ chế để điều tiết nguồn vốn. Một số doanh nghiệp tiến hành đầu tư dự án khi năng lực tài chính chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tối ưu hóa hiệu quả nguồn vốn.
3. Một số phương hướng và giải pháp quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
Một là, rà soát lại kế hoạch cổ phần hóa, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước theo “Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021-2030” và các tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước, từ đó, xác định lộ trình tiếp tục chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước cần nắm giữ về CMSC và không cần nắm giữ về SCIC (thoái vốn tại các ngành, lĩnh vực không trọng điểm để tập trung nguồn lực tài chính vào các ngành, lĩnh vực Nhà nước cần phát triển theo định hướng).
Hai là, đẩy mạnh công tác tách chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản lý nhà nước. Kiên quyết chấm dứt tình trạng cơ quan hành chính nhà nước can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; phân định rõ quyền quản lý hành chính của Nhà nước và quản lý sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, xóa bỏ việc đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp rải rác ở các bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chuyển về các đầu mối tập trung; các cơ quan quản lý nhà nước căn cứ vào các quy định của pháp luật và yêu cầu quản lý để ban hành một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước.
Ba là, trong giai đoạn tiếp theo để đạt được mục tiêu thay đổi nguyên tắc về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo hướng đầu tư kinh doanh vốn một cách công khai, minh bạch, tối đa hóa giá trị vốn nhà nước theo thị trường và hướng đến chỉ nên có một cơ quan làm đầu mối quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đòi hỏi chuyển đổi mô hình CMSC thành Hội đồng Quản lý và giám sát vốn nhà nước với vai trò chính là giám sát, định hướng và cho phép CMSC chỉ đạo thực hiện được các nhiệm vụ của Chính phủ một cách nhanh chóng với sự thống nhất cao trong toàn Chính phủ.
(1) Cần có sự thống nhất cao trong bộ máy Đảng và Nhà nước, chuyển đổi mục tiêu từ sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp sang đầu tư, kinh doanh vốn phát triển doanh nghiệp. Vốn nhà nước cần được đầu tư vào doanh nghiệp tập trung trong những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư, ứng dụng công nghệ cao, đầu tư lớn, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và nền kinh tế, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho người lao động.
(2) Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập đối với doanh nghiệp nhà nước và các khu vực doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp nhà nước phải không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động để nâng cao hiệu quả vốn và tài sản nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh.
(3) Để CMSC có thể thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ được giao một cách có hiệu quả nhất thì Chính phủ cân nhắc có phương án kiện toàn một thể chế riêng, mang tính đồng bộ, xuyên suốt cho CMSC, đồng thời, cần có đổi mới định hướng trong mô hình và hoạt động cho giai đoạn tới.

(4) CMSC chuyển đổi thành Hội đồng Quản lý và giám sát vốn nhà nước tập trung trực thuộc Chính phủ – sáp nhập với Vụ Đổi mới doanh nghiệp hoặc Bộ Tài chính – sáp nhập với Cục Tài chính doanh nghiệp, có ban lãnh đạo là Chính phủ, Hội đồng các bộ trưởng cho phép Hội đồng Quản lý và giám sát vốn nhà nước thực hiện các nhiệm vụ với sự thống nhất cao trong toàn Chính phủ. Chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng Quản lý và giám sát vốn nhà nước là giám sát, định hướng cho hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước này theo định hướng chung trong phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn sau này mà không tham gia trực tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Thay vào đó, thực hiện các quyền của nhà đầu tư, thụ hưởng những lợi ích từ vốn góp tại các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường và thông lệ quản trị doanh nghiệp quốc tế.
(5) SCIC dưới sự quản lý, giám sát của Hội đồng Quản lý và giám sát vốn nhà nước là tổ chức tài chính – đầu tư của Quốc gia, làm công cụ chủ yếu để thực hiện các mục tiêu, chương trình ưu tiên theo phân công và định hướng của Nhà nước, tập trung nguồn vốn đầu tư vào những ngành, lĩnh vực then chốt, trọng yếu mang tính dẫn dắt, lan tỏa, mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước và phát triển kinh tế – xã hội.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2017). Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2021). Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030.
3. Ban Chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW (2024). Kế hoạch số 140/KH-BCĐTKNQ18 ngày 05/12/2024 sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy Chính phủ.
4. Ban Chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW (2025). Công văn số 06/CV-BCĐTKNQ18 ngày 12/01/2025 bổ sung, hoàn thiện phương án sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
5. Chính phủ (2010). Nghị định số 25/2010/NĐ-CP ngày 19/3/2010 về chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.
6. Chính phủ (2016). Nghị định số 10/2016/NĐ-CP ngày 01/02/2016 quy định về cơ quan thuộc Chính phủ.
7. Chính phủ (2018). Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03/02/2018 về thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
8. Chính phủ (2018). Nghị định số 131/2018/NĐ-CP ngày 29/9/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
9. Chính phủ (2019). Nghị định số 10/2019/NĐ-CP ngày 30/01/2019 về thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước.
10. Quốc hội (2014). Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước năm 2014
11. Quốc hội (2015). Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015.
12. Quốc hội (2017). Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017
13. Quốc hội (2019). Luật Đầu tư công năm 2019.
14. Quốc hội (2020). Luật Doanh nghiệp năm 2020.
15. Quốc hội (2020). Luật Đầu tư năm 2020.
16. Quốc hội (2024). Luật Đất đai năm 2024.
17. Uỷ ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (2023). Báo cáo 5 năm hoạt động của Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
18. Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (2024). Báo cáo về thực hiện nhiệm vụ năm 2023 và phương hướng hoạt động năm 2024 của Ủy ban và 19 tập đoàn, tổng công ty do Ủy ban làm đại diện chủ sở hữu nhằm góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội.
19. Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (2024). Báo cáo Tổng kết công tác năm 2024, phương hướng, nhiệm vụ năm 2025 của Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và 19 tập đoàn, tổng công ty.
20. Uỷ ban quản lý vốn hàng triệu tỷ sắp kết thúc hoạt động, Chủ tịch chia sẻ. https://vietnamnet.vn/uy-ban-quan-ly-von-hang-trieu-ty-sap-ket-thuc-hoat-dong-chu-tich-chia-se-gi-2349407.html, ngày 06/12/2024.
21. SCIC về siêu Ủy ban: Có tạo nên “nhà nước nhỏ trong một nhà nước lớn”?. https://vneconomy.vn/scic-ve-sieu-uy-ban-co-tao-nen-nha-nuoc-nho-trong-mot-nha-nuoc-lon.htm, ngày 19/9/2018.