Mức sinh thấp ở Việt Nam – hệ lụy và những gợi ý chính sách

ThS. Lê Hồng Hạnh
Học viện Chính sách và phát triển

(Quanlynhanuoc.vn) – Mức sinh thấp đang là vấn đề nhận được sự quan tâm của cộng đồng dân cư bởi lẽ nó đã và đang mang đến nhiều hệ lụy cho xã hội ở nhiều phương diện khác nhau. Chính phủ cần có các giải pháp toàn diện và kịp thời để giảm thiểu tác động của vấn đề này, giúp duy trì sự phát triển bền vững cho đất nước trong tương lai.

Từ khóa: Mức sinh thấp, hệ lụy, gợi ý chính sách.

1. Đặt vấn đề

Mức sinh phản ánh mức độ sinh sản của dân số, biểu thị số trẻ em sinh sống mà một phụ nữ có được trong suốt cuộc đời sinh sản của mình. Mức sinh phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố sinh học, tự nhiên và xã hội1.

Việc nghiên cứu mức sinh luôn được các quốc gia quan tâm, bởi lẽ sinh đóng vai trò thay thế và duy trì về mặt sinh học của xã hội loài người. Dân số gia tăng cũng như sự thay thế từ thế hệ này sang thế hệ khác hoàn toàn phụ thuộc vào mức sinh. Nếu việc thay thế về số lượng không phù hợp sẽ có những tác động không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Vì thế, đối với các quốc gia, mức sinh là một trong các chỉ số quan trọng không chỉ để đánh giá cấu trúc dân số và còn dựa vào những thay đổi của nó theo thời gian, các chính phủ và các tổ chức xã hội sẽ có những tác động để điều chỉnh các chính sách phù hợp về y tế, giáo dục và phát triển kinh tế.

Thực tế cho thấy, mức sinh đã và đang có những ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế – xã hội của một quốc gia. Một mức sinh quá cao, tốc độ tăng dân số nhanh có thể tạo ra áp lực lớn đối với tài nguyên, cơ sở hạ tầng, việc làm, các dịch vụ công cộng… Ngược lại, mức sinh quá thấp, đặc biệt dưới mức sinh thay thế lại dẫn đến già hóa dân số, thiếu hụt lao động, nhất là lao động trẻ, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, an sinh xã hội và các chính sách đối với người cao tuổi. Vì vậy, các quốc gia cần có các tác động hợp lý để điều chỉnh mức sinh, cân bằng để duy trì sự phát triển bền vững, vừa bảo đảm tăng trưởng dân số hợp lý, vừa đáp ứng nhu cầu về lao động và các dịch vụ công cộng.

2. Mức sinh thấp ở Việt Nam và những hệ lụy

Vấn đề dân số được đề cập một cách chính thức ở Việt Nam từ hơn 60 năm qua, bắt đầu từ văn bản đầu tiên, Quyết định số 216/CP ngày 26/12/1961, đến các văn bản mang tính toàn diện hơn, như: Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030, Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới…

Về mức sinh, Việt Nam đã đạt được mức sinh thay thế (tổng tỷ suất sinh -TFR = 2,1 con) vào năm 2006, sớm hơn 10 năm so với mục tiêu cụ thể được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII). Tuy nhiên, mức sinh này không ổn định và đang có xu hướng không ổn định và giảm.

Với biểu đồ trên cho thấy, sự biến đổi mức sinh ở Việt Nam thay đổi qua các thời kỳ. Giai đoạn 1960 – 2009, mức sinh giảm liên tục từ 6,3 con/phụ nữ xuống còn 2,3 con/phụ nữ. Kết quả này có được do nỗ lực thực hiện chính sách dân số – kế hoạch hóa gia đình trong giai đoạn này, đặc biệt kể từ khi có Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII). Đến giai đoạn 2009 – 2015, mức sinh duy trì ổn định quanh mức 2,1 con/phụ nữ, đạt mức sinh thay thế, bảo đảm dân số không suy giảm về dài hạn. Từ 2016 – 2021, mức sinh tuy có dao động nhẹ nhưng vẫn trong khoảng mức sinh thay thế. Đặc biệt, từ 2022 – 2024, mức sinh bắt đầu giảm mạnh xuống 1,96 con/phụ nữ (năm 2023) và còn 1,91 con/phụ nữ (năm 2024)2, đánh dấu mức thấp nhất trong lịch sử thống kê dân số Việt Nam. Sự suy giảm mạnh trong hai năm gần đây đặt ra nhiều thách thức đối với chiến lược dân số và phát triển bền vững.

Mức sinh giữa các vùng cũng có sự chênh lệch đáng kể, phân theo vùng và theo khu vực.

Bảng: Tổng tỷ suất sinh phân theo vùng kinh tế và theo khu vực giai đoạn 2009 – 2024

Đơn vị: con/phụ nữ

VùngNăm 2009Năm 2019Năm 2024
Trung du và miền núi phía Bắc2,452,432,34
Đồng bằng sông Hồng2,112,352,24
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung2,192,232,08
Tây Nguyên2,652,432,24
Đông Nam Bộ1,651,561,48
Đồng bằng sông Cửu Long1,921,801,62
Thành thị1,811,831,67
Nông thôn2,142,262,08
Nguồn: Tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 2019: Thực trạng và các yếu tố tác động đến mức sinh tại Việt Nam (năm 2021) và tổng hợp từ số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê qua các năm.

Nhìn bảng thống kê trên có thể thấy, xu hướng biến đổi mức sinh cũng giống như xu thế chung của cả nước, giảm dần trong giai đoạn 2009 – 2024. Đặc biệt, năm 2024, có 3/6 vùng kinh tế có mức sinh dưới mức sinh thay thế, gồm Đông Nam Bộ (1,48), đồng bằng sông Cửu Long (1,62) và Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung (2,08). Phân theo khu vực, ​mức sinh ở nông thôn luôn cao hơn thành thị. Đáng chú ý, mức sinh ở nông thôn tăng từ 2,14 lên 2,26 con/phụ nữ trong khi ở thành thị tăng nhẹ từ 1,81 lên 1,83 con/phụ nữ giai đoạn 2009 – 2019, sau đó, giảm mạnh tương ứng là 1,67 và 2,083. Những biến động này phản ánh sự khác biệt về kinh tế, văn hóa và chính sách dân số giữa các khu vực và vùng miền trong cả nước.

Việc duy trì mức sinh thấp, dưới mức sinh thay thế là xu hướng chung đang diễn ra ở Việt Nam, đặc biệt từ năm 2022 đến nay. Điều này đã tạo ra một số hệ lụy đối với dân số cũng như nhịp độ phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam.

Một là, mức sinh thấp dẫn đến giảm tỷ lệ sinh, tốc độ tăng dân số giảm từ 3,8% năm 1960 xuống còn 1,06% năm 2019 và 0,99% năm 2024. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 2019 – 2024 là 0,99%/năm, giảm 0,23 điểm phần trăm so với giai đoạn 2014 – 2019 (1,22%/năm)4. Dự báo sau năm 2035, nếu mức sinh vẫn theo đà tiếp tục giảm, dân số có thể bắt đầu suy giảm tự nhiên. Bởi lẽ, khi mức sinh dưới 2,1 con/phụ nữ, thế hệ sau sẽ không đủ để thay thế thế hệ trước, dẫn đến tăng trưởng dân số âm trong dài hạn. Điều này khiến dân số Việt Nam phải đối mặt với suy giảm dân số trong vòng 15 – 20 năm tới, như: Nhật Bản, Hàn Quốc hay Trung Quốc. Do đó, nếu Chính phủ không xây dựng và ban hành chính sách khuyến khích sinh con phù hợp, Việt Nam có thể đối mặt với suy giảm dân số trong tương lai.

Hai là, khi tốc độ tăng dân số giảm, một hệ lụy tiếp theo có thể dễ dàng nhận thấy là thiếu lao động, đặc biệt là lao động trẻ. Điều này, một mặt, có thể làm giảm năng suất lao động, nhất là các ngành cần nhiều lao động, mặt khác, có thể ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế trong dài hạn. Chính phủ Việt Nam cũng đã phải đưa ra lộ trình trong việc điều chỉnh độ tuổi lao động để duy trì nguồn lao động cho xã hội.

Ba là, tỷ lệ người cao tuổi tăng, dẫn tới tình trạng già hóa dân số. Đây là một trong những hệ lụy rõ rệt nhất của mức sinh thấp. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ người cao tuổi (60 tuổi trở lên) ở Việt Nam đã tăng từ 8,1% vào năm 1999 lên 9,9% năm 2009, 11,9% năm 2019 và đang ở mức 14% năm 2024. Dự báo đến năm 2035, Việt Nam sẽ có khoảng 20% dân số trên 60 tuổi, nghĩa là mỗi năm số người già sẽ gia tăng nhanh chóng5. Với một quốc gia đang bước vào giai đoạn dân số già như Việt Nam, tỷ lệ người già tăng đồng nghĩa với các chi phí cho các chương trình an sinh xã hội, bảo hiểm y tế và chăm sóc người cao tuổi sẽ tăng lên, gây gánh nặng cho ngân sách quốc gia. Điều này có thể dẫn đến tình trạng thiếu hụt tài chính và các vấn đề về ngân sách công.

Bốn là, một hệ lụy xã hội xuất phát từ mức sinh thấp, đó là làm thay đổi cấu trúc gia đình theo hướng gia đình đông con sang gia đình ít con. Điều này tạo ra áp lực đối với các thế hệ sau khi phải chăm sóc cho bố mẹ, ông bà. Ngoài ra, các gia đình ít con có thể đối diện với vấn đề cô đơn, thiếu người chia sẻ.

Năm là, mức sinh ở Việt Nam thấp, nhưng lại có sự khác biệt giữa các địa phương, các vùng và các khu vực. Do đó, nếu không có những điều chỉnh chính sách dân số phù hợp, hài hòa, khoảng cách về mức tăng dân số sẽ bị giãn rộng giữa các địa bàn. Điều này càng tạo nên áp lực cho sự phát triển hài hòa, đồng bộ và bền vững trong phạm vi cả nước.

3. Một số khuyến nghị chính sách

Điều chỉnh mức sinh thấp hướng tới mục tiêu phát triển bền vững là một trong những nhiệm vụ trọng tâm đang đặt ra cho Chính phủ, Bộ Y tế và các cơ quan liên quan. Theo khuyến cáo của Quỹ Dân số Liên hiệp quốc (UNFPA) và xuất phát từ kinh nghiệm của một số các quốc gia tương tự Việt Nam, các chính sách điều chỉnh mức sinh thấp không chỉ tập trung vào việc khuyến khích sinh con mà còn phải bảo đảm chất lượng cuộc sống, nâng cao bình đẳng giới cho các gia đình và xã hội.

Thứ nhất, để đưa mức sinh trở về mức sinh thay thế, cần áp dụng chính sách khuyến khích sinh con thay vì chính sách khuyến khích mỗi gia đình chỉ sinh hai con, cho phép các cặp vợ chồng tự quyết định số con và thời điểm sinh con. ​Truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi nhận thức và hành vi của người dân về vấn đề sinh con. Hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh truyền thông để khuyến khích các cặp vợ chồng sinh đủ hai con, đặc biệt ở các khu vực có mức sinh thấp như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, đồng bằng sông Cửu Long. Các thông điệp truyền thông như “Sinh con, nuôi con là niềm vui của các cặp vợ chồng”… cần được lan tỏa mạnh hơn trong xã hội nhằm giúp thay đổi nhận thức, đặc biệt là trong giới trẻ hiểu được trách nhiệm sinh con là điều tốt đẹp và cần thiết.

Thứ hai, thực hiện đồng bộ các giải pháp hỗ trợ cho các gia đình, nhất là các gia đình trẻ trên nhiều phương diện khác nhau.

Về hỗ trợ tài chính: đối với các cặp vợ chồng trẻ, quyết định sinh con phụ thuộc rất nhiều vào tình hình tài chính. Vì vậy, họ cần được hỗ trợ tài chính như trợ cấp sinh con, sinh con hay miễn giảm thuế cho gia đình nuôi con. Một số giải pháp cần được triển khai, như: hỗ trợ 5 – 10 triệu đồng cho gia đình sinh con thứ hai trở lên; hỗ trợ tài chính cao hơn ở các thành phố có mức sinh thấp, như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, giảm thuế thu nhập cá nhân cho cha mẹ có con nhỏ…

Hỗ trợ về nhà ở: cần có giải pháp hỗ trợ nhà ở cho gia đình trẻ như triển khai các chương trình hỗ trợ mua nhà hoặc cho thuê nhà giá rẻ cho các gia đình trẻ, đặc biệt là các gia đình có nhiều con; hay chương trình vay vốn ưu đãi cho các gia đình có con nhỏ để cải thiện điều kiện sống, giúp họ yên tâm nuôi dạy con cái.

Hỗ trợ về y tế: cung cấp các dịch vụ y tế chất lượng cao về chăm sóc sức khỏe sinh sản, bao gồm tư vấn về kế hoạch hóa gia đình, hỗ trợ sinh sản, cũng như các chương trình chăm sóc sức khỏe cho mẹ và bé.

Hỗ trợ về giáo dục: miễn/giảm học phí cho trẻ em ở các bậc học từ mầm non cho tới trung học cơ sở.

Một số hỗ trợ khác: cải thiện chính sách nghỉ thai sản cho cả mẹ và cha như kéo dài thời gian nghỉ thai sản lên 8 – 12 tháng, nghỉ thai sản cho nam giới ít nhất 1 tháng để hỗ trợ vợ chăm con; kéo dài thời gian nghỉ phép và cung cấp mức trợ cấp hợp lý để phụ nữ có thể vừa chăm sóc con cái, vừa quay lại công việc mà không phải lo lắng về tài chính như cho phép phụ nữ có con nhỏ dưới 12 tháng được làm việc linh hoạt, có phòng chăm sóc trẻ em, giảm giờ làm cho phụ nữ có con nhỏ (ví dụ: chỉ làm 6 giờ/ngày mà vẫn hưởng đủ lương)…

Thứ ba, cần quan tâm tới các chương trình hành động thúc đẩy bình đẳng giới, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ có thể đồng thời thực hiện được hai sứ mệnh là làm mẹ và tham gia các công việc xã hội. Có thể áp dụng các chính sách như chế độ làm việc linh hoạt (làm việc từ xa, giờ làm việc linh hoạt) để phụ nữ có thể cân bằng giữa công việc và chăm sóc con cái.

Thứ tư, để giảm thiểu sự chênh lệch về mức sinh giữa các địa phương, các vùng và khu vực, cần thiết kế các chính sách đặc thù để khuyến khích các gia đình ở các khu vực có mức sinh thấp sinh con, như: hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, trường học, hoặc các khoản trợ cấp đặc biệt. Ngoài ra, cần tăng cường thực hiện các chính sách về giáo dục và chăm sóc sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục cho đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung và trẻ em gái vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng nhằm tạo động lực, nâng cao trình độ và mức sống của phụ nữ và trẻ em gái tại các địa bàn này, từ đó, giúp ngăn chặn có hiệu quả hơn tình trạng tảo hôn và sinh con sớm. Đây là mục tiêu kép nhằm vừa bảo đảm chất lượng cuộc sống người dân, vừa thực hiện công bằng xã hội, xóa bớt khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và các vùng, miền.

Chú thích:
1. Nguyễn Nam Phương, Ngô Quỳnh An (2018). Giáo trình Dân số và phát triển với quản lý. H. NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.
2, 3, 4, 5. Kết quả điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024. https://www.mpi.gov.vn/portal/Pages/2025-1-6/Ket-qua-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-giua-ky-nam-2024nbhom0.aspx?
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Đình Cử (2007). Những xu hướng biến đổi dân số ở Việt Nam. H. NXB Nông nghiệp.
2. Duy trì mức sinh thay thế và điều chỉnh mức sinh phù hợp – Cơ hội và những thách thức. https://tapchicongsan.org.vn/van_hoa_xa_hoi/-/2018/816919/duy-tri-muc-sinh-thay-the-va-dieu-chinh-muc-sinh-phu-hop-co-hoi-va-nhung-thach-thuc.aspx, ngày 12/3/2025.