Quan điểm của Đảng về chuẩn mực văn hóa cán bộ

Trung tá, TS. Đỗ Tiến Dũng
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
Thượng tá, QNCN hệ 4, Nguyễn Thị Minh
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Cán bộ là bộ phận tinh hoa, vốn quý của Đảng, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành bại đối với sự nghiệp cách mạng. Tiếp cận và nghiên cứu làm rõ thêm những nội dung quan điểm của Đảng về chuẩn mực văn hóa của cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đang là vấn đề đặt ra cấp thiết nhằm định hướng vận dụng xây dựng đội ngũ đạt chuẩn văn hóa, thực sự tiêu biểu, tiên phong nhất của văn hóa, con người Việt Nam, ngang tầm với nhiệm vụ, chức trách được giao, góp phần hiện thực hóa chuẩn mực văn hóa, con người trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam vươn mình vào kỷ nguyên mới.

Từ khóa: Văn hóa của cán bộ, chuẩn mực văn hóa, quan điểm về văn hóa của Đảng.

1. Cơ sở lý luận về xây dựng chuẩn mực văn hóa cán bộ

Thuật ngữ “cán bộ” thường được gắn với thuật ngữ “công chức”, “viên chức” với các cách dùng và ý nghĩa khác nhau. Tiếp cận theo góc độ về pháp lý: Trước khi có Luật Cán bộ, công chức năm 2008, thuật ngữ “cán bộ” được sử dụng trong phạm vi rất rộng để gọi những người làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, hoặc để gọi những người có trình độ từ trung học chuyên nghiệp trở lên là cán bộ chuyên môn; trong lĩnh vực kỹ thuật, gọi người có trình độ trung học chuyên nghiệp là cán bộ kỹ thuật để phân biệt với kỹ sư là người có trình độ đại học, cũng có khi sử dụng luôn cả cụm từ dài “cán bộ, công chức, viên chức” để chỉ chung những người làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, kể cả khi kê khai lý lịch ở mục thành phần bản thân đều ghi như vậy. Với người dân, cán bộ còn được hiểu là người được phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh nhất định trong cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội từ cơ sở đến trung ương; hoặc người đảm đương một chức vụ, nhiệm vụ nào đó ở cơ sở sản xuất, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Như vậy, theo các cách tiếp cận khác nhau thì đều có sự giải thích khác nhau về thuật ngữ “cán bộ” và chưa có văn bản nào xác định cụ thể những tiêu chí nào là cán bộ trước khi có Luật Cán bộ, công chức. Điều này, đã ảnh hưởng lớn đến công tác xây dựng và thực hiện cơ chế quản lý, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ cũng như phân định đặc điểm, tính chất hoạt động khác nhau giữa cán bộ với công chức, viên chức. Đến khi Luật Cán bộ, công chức ra đời ngày 13/11/2008, đã chỉ rõ: cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,… ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Đây là cơ sở để tiếp tục đẩy mạnh việc hoàn thiện, đổi mới cơ chế quản lý và phân biệt rõ về cán bộ, công chức, viên chức, tuy nhiên, dưới góc độ này, cán bộ có thể là đảng viên hoặc không phải là đảng viên, ví dụ như: trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố là những người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố; được hưởng phụ cấp hàng tháng, mức phụ cấp do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định theo quy định của pháp luật, họ không nhất thiết phải là đảng viên.

Tiếp cận về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của “cán bộ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: “cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng; cán bộ là cái gốc của mọi công việc”1. Với quan niệm này, đã chỉ rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ, tầm quan trọng của cán bộ là nhân tố quyết định sự thắng lợi của cách mạng. Cán bộ còn được hiểu theo nghĩa hẹp, là người đảng viên không giữ vị trí lãnh đạo nào đó trong đảng, nhưng có vai trò lãnh đạo đối với quần chúng, xã hội và cộng đồng; là công chức, viên chức của Nhà nước không giữ vị trí quản lý, chỉ thực hiện nhiệm vụ, nghiệp vụ nào đó trong bộ máy của Đảng hoặc trong hệ thống chính trị, đoàn thể chính trị – xã hội.

Từ ngữ cán bộ lãnh đạo, quản lý được sử dụng phổ biến và đang thực thi trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Quy định số 80-QĐ/TW ngày 18/8/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử đã xác định rất rõ cán bộ lãnh đạo và quản lý – họ là cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị, gồm cả tổ chức đảng và bộ máy hành chính nhà nước. Họ có vị trí, vai trò rất quan trọng trong hệ thống chính trị, được chia thành nhiều loại, nhiều cấp, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược.

Tiếp cận theo góc độ văn hóa, chính trị, cán bộ vừa là sản phẩm của văn hóa con người, chế độ và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, vừa là chủ thể lãnh đạo xây dựng nền văn hóa. Do vậy, hơn ai hết họ phải là những nhân cách văn hóa năng động nhất, được cuốn hút vào xây dựng Nhà nước pháp quyền và thực hiện những nhiệm vụ chính trị của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Theo đó, có thể quan niệm: văn hóa của cán bộ là một bộ phận cấu thành và phản ánh giá trị phổ quát, tiêu biểu của văn hóa con người Việt Nam. Văn hóa của cán bộ thể hiện tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, khoa học, pháp luật, có giá trị định hướng, dẫn dắt tư tưởng, hành động phù hợp với chức trách, quyền hạn được giao trong đời sống chính trị, xã hội ở Việt Nam.

Văn hóa của cán bộ thuộc hệ giá trị văn hóa con người – con người xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chịu sự quy định của văn hóa con người Việt Nam; là một bộ phận quan trọng góp phần cấu thành văn hóa con người Việt Nam; những giá trị phổ quát nhất của con người phải và luôn thể hiện ở người cán bộ. Các giá trị căn bản của con người Việt Nam được thể hiện, lắng đọng tập trung ở người cán bộ, vì họ là lực lượng nòng cốt, rường cột, tiêu biểu cho xây dựng con người mới và mô hình, chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng chỉ ra. Giá trị văn hóa của cán bộ biểu hiện tập trung nhất tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, khoa học và pháp luật. Đây là những nội dung nổi bật nhất thể hiện phẩm chất tốt đẹp của cán bộ, cũng như con người Việt Nam.

Từ thực tiễn phát huy, lan tỏa văn hóa của cán bộ và đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, Đảng ta đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có được những tiêu chuẩn về văn hóa nhất định để đủ sức lãnh đạo cách mạng, tổ chức đảng, lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động tiến hành sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc; cũng như có các tiêu chuẩn cần thiết của người cán bộ để thực thi việc tổ chức, điều hành, quản lý công việc của Nhà nước và xã hội phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, đã từng bước xác lập hệ thống những tư tưởng, quan điểm của mình về chuẩn mực văn hóa, con người Việt Nam và xây dựng chuẩn mực văn hóa của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và sứ mệnh lãnh đạo Nhà nước và xã hội của mình.

Với tư cách là một thực thể văn hóa xã hội, đội ngũ cán bộ của Đảng còn khuôn theo những chuẩn mực xã hội nhất định, bởi vậy, chuẩn mực văn hóa của cán bộ là một trong những bộ phận cấu thành chuẩn mực văn hóa và con người Việt Nam; hình thành, phát triển theo tiến trình đấu tranh cách mạng của Đảng, quy định bởi nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, yêu cầu xây dựng con người và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những giai đoạn lịch sử, cụ thể. Chuẩn mực văn hóa của cán bộ là những quy định về văn hóa mang tính bắt buộc, pháp lý và chế ước của Đảng, Nhà nước và xã hội, nhằm điều chỉnh, quy định tư tưởng, thái độ và hành vi của người lãnh đạo, quản lý trong tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và đời sống xã hội khi thực thi chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Từ góc độ nghiên cứu, trong bài viết tập trung nghiên cứu vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý – người có chức vụ lãnh đạo trong Đảng và trong bộ máy hành chính của Nhà nước, đoàn thể chính trị – xã hội, lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất của Nhà nước, đồng thời luận giải, làm rõ những nội dung quan điểm của Đảng về chuẩn mực văn hóa của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.

2. Quán triệt thực hiện quan điểm của Đảng xây dựng chuẩn mực văn hóa cán bộ

Việc nghiên cứu, chỉ ra và làm rõ nội dung quan điểm của Đảng về chuẩn mực văn hóa của đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đổi mới được dựa trên hệ thống các văn kiện quan trọng của Đảng ta. Tập trung và tiêu biểu là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) – Nghị quyết số 33/NQ/TW ngày 09/6/2014, về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.Quá trình nghiên cứu, nội dung quan điểm của Đảng về chuẩn mực văn hóa của đội ngũ cán bộ được thể hiện trên các vấn đề cốt lõi như sau:

Thứ nhất, xây dựng văn hóa của đội ngũ cán bộ là nội dung quan trọng của xây dựng văn hóa con người Việt Nam, thể hiện quan điểm về việc nhất quán quán triệt và thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quán triệt quan điểm phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.

Xây dựng văn hóa của cán bộ rất quan trọng để mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao vai trò gương mẫu, động viên, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng văn hóa, đạo đức và lối sống lành mạnh phải được thể hiện trước hết trong mọi tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, đoàn thể, trong mỗi cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, trong từng đảng viên, hội viên. Sự gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên là yêu cầu quan trọng trong công tác lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình định hình và xây dựng, văn hóa của đội ngũ cán bộ phải có sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật, hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.

Mọi hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học của cán bộ đều hướng đến xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng đến các giá trị chân – thiện – mỹ; xây dựng và rèn luyện đạo đức gắn với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập. Nội dung quan điểm của Đảng thể hiện sự thống nhất trong nhận thức về sự gắn kết xây dựng văn hóa con người Việt Nam thống nhất trong phát huy các giá trị văn hóa của đội ngũ cán bộ. Xây dựng văn hóa của đội ngũ cán bộ chính là xác định và hình thành những giá trị văn hóa của con người Việt Nam.

Thứ hai, xây dựng văn hóa của đội ngũ cán bộ là trọng tâm của xây dựng văn hóa trong Đảng, nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Đây là một trong những nhiệm vụ quán triệt sâu sắc hệ thống quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước mà Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra. Đảng xác định chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trong đó, trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.

Mặc dù là một trong những nội dung, nhiệm vụ của xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới, nhưng qua việc xác định các nội dung, nhiệm vụ, mối quan hệ và vị trí, vai trò của các thành tố cho thấy, quan điểm của Đảng trong việc xác định thứ tự ưu tiên giải quyết khâu then chốt của then chốt hay còn gọi là “trọng tâm” chính là xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Coi đây là nhân tố quyết định nhất tới toàn bộ quá trình xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng văn hóa trong Đảng, Nhà nước, xây dựng văn hóa trong chính trị và xây dựng văn hóa, con người Việt Nam.

Đặc biệt, trước yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước bước vào kỷ nguyên  mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, có nhiều dấu mốc lịch sử trọng đại, việc xác định xây dựng văn hóa của đội ngũ cán bộ là trọng tâm của xây dựng văn hóa trong Đảng, nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh có ý nghĩa rất quan trọng, trở thành phương hướng, mục tiêu, cơ sở cho việc xác lập các chủ trương, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam: “Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo, quản lý”2 mà nội dung căn bản là xác lập và thực hiện các chuẩn mực văn hóa của đội ngũ cán bộ, đòi hỏi phải có được các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, đặc biệt là cán bộ chủ chốt, cán bộ cấp chiến lược bảo đảm sự tích hợp những nội dung căn bản về văn hóa và xây dựng văn hóa của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. 

Thứ ba, đề cao tính tiền phong, gương mẫu trong văn hóa ứng xử của người lãnh đạo, cán bộ, đảng viên trong các cơ quan, đơn vị.

Đây là quan điểm của Đảng chỉ đạo trong việc xác lập và thực thi chuẩn mực văn hóa của đội ngũ cán bộ phải tập trung xác lập rõ, thể hiện được tính tiền phong, gương mẫu. Kế thừa, phát huy bản chất cách mạng của người cán bộ, đảng viên, nhất là tiếp tục kiên định với những giá trị văn hóa Đảng, văn hóa chính trị của Đảng đã được xác lập và thể hiện trong nhiều tài liệu, văn kiện của Đảng và Nhà nước trong thời gian trước đây, nhất là trong thời kỳ mới, khi xác lập chủ trương phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, Đại hội XIII tiếp tục khẳng định quan điểm: “Đề cao tính tiền phong, gương mẫu trong văn hóa ứng xử của người lãnh đạo, cán bộ, đảng viên trong các cơ quan, đơn vị”3.

Trước hếtxác lập và thực thi tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, quản lý là một chủ trương nhất quán luôn được Đảng coi trọngvàđề cao. Trong khi quan tâm phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo động lực phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước rất coi trọng khâu đột phá có tính chất dẫn dắt sự nghiệp văn hóa tiến lên đó là vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ trong thực thi chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn, nhất là các quy định của Bộ Chính trị về tăng cường trách nhiệm nêu gương: thực hiện nghiêm các quy định của Ðảng về trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Ðảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan toả, thúc đẩy các phong trào cách mạng.

3. Kết luận

Văn hóa không chỉ nằm trong chiều sâu những giá trị tinh thần mà còn là những biểu tượng phản ánh nét đẹp của con người, dân tộc Việt Nam, trong đó có đặc thù văn hóa của cán bộ được biểu hiện ở những chuẩn mực văn hóa, như: trung với Đảng, hiếu với dân, gương mẫu tiên phong trên mọi lĩnh vực, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, vì lợi ích chung. Tiếp cận và nghiên cứu làm rõ nội dung quan điểm của Đảng về chuẩn mực văn hóa của cán bộ, tập trung vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là cơ sở và căn cứ quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ có chiều sâu, bề dày văn hóa từ suy nghĩ đến hành động trước thách thức, tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đó, xác định, đề xuất những định hướng vận dụng quan điểm của Đảng về chuẩn mực văn hóa của cán bộ nâng cao hiệu quả, uy tín, giữ vững phẩm chất người cán bộ cách mạng trong thực hiện nhiệm vụ, chức trách được giao và góp phần phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, hiện thực thành công hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người trong thực tiễn đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Chú thích:
1. X.Y.Z (1947). Sửa đổi lối làm việc. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 309.
2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 144, 262.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014). Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI). Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật
4. Quốc hội (2008). Luật Cán bộ, công chức năm 2008.